Điệp viên Cộng Sản Phạm Xuân Ẩn: Xin Đừng Chôn Tôi Gần Cộng Sản! - Thanh Niên Công Giáo

728x90 AdSpace

Trending
16 tháng 1, 2014

Điệp viên Cộng Sản Phạm Xuân Ẩn: Xin Đừng Chôn Tôi Gần Cộng Sản!

Người gián điệp và nhà báo trầm lặng – Phạm Xuân Ẩn
và cuộc đời hư thực
David DeVoss: Phạm Xuân Ẩn, phóng viên chiến tranh tài hoa của tạp chí Time bí mật làm gián điệp cho Hà Nội vừa qua đời ngày 20 tháng 9, 2006. Những lời cáo phó rất tử tế. Người ta nhớ đến Ẩn như một nhà báo ưu tú, ban ngày viết cho Time, ban đêm gởi mật mã và microfilm cho Việt Cộng đang quanh quẩn ở các khu rừng ngoại thành Sài Gòn.

Nhưng lời cáo phó còn thiếu, không đề cập đến việc Ẩn – người mà Hà Nội đã công kênh thành “Anh Hùng Lực Lượng Vũ Trang Nhân Dân” – chán ghét cái chế độ chính trị ông đã giúp cướp được chính quyền.

Tôi gặp Phạm Xuân Ẩn lần đầu vào năm 1972, khi vừa bước chân đến Việt Nam, năm mới 24 tuổi làm phóng viên chiến trường cho Tạp chí Time. Lúc ấy, Ẩn là một huyền thoại, một tay phong lưu vui tính được mệnh danh là “Tướng Givral” theo tên tiệm bán bánh và cà phê nổi tiếng trên đường Tự Do ông thường lui tới.

Phạm Xuân Ẩn cùng với bốn người con của ông: Hoàng Ân (tức Phạm Ân, con cả, bìa phải), Hoàng Vũ bên phía tay phải ông Ẩn, Hoàng An bên phía tay trái và Thanh Bình, con gái.

Mọi người đều tin tưởng Ẩn bất kể không khí ngờ vực phủ kín Sài Gòn thời đó. Khi cuộc chiến đột ngột chấm dứt cuối tháng tư 1975, gia đình Ẩn và các nhân viên khác của tạp chí Time muốn chạy thoát đều được di tản trong Khi Ẩn ở lại tiếp tục làm việc cho Time tại Sài Gòn. Ẩn điện về New York, “Tất cả phóng viên người Mỹ đã được di tản vì tình trạng khẩn trương, Văn phòng tạp chí Time hiện do Phạm Xuân Ẩn điều động”. Time tán dương quyết định ở lại của Phạm Xuân Ẩn và đăng hình ông, với vẻ căng thẳng, đứng hút thuốc giữa con phố vắng ở Sài Gòn.

 
Phạm Xuân Hoàng Ân (thông dịch viên, ngồi cạnh Trương Tấn Sang)
là con của cựu điệp viên cộng sản Phạm Xuân Ẩn

Tôi gặp gia đình của Ẩn ở tại tị nạn Pendleton tại California và giúp đưa họ về Arlington, Virginia – định cư ở đó. Cuối cùng, sau một năm im lặng, vợ của Ẩn nhận được điện tín bảo bà phải trở lại Việt Nam. Dù lòng đầy lo âu và nghi ngại vợ Phạm Xuân Ẩn đã quay về theo lệnh. Đưa gia đình về lại Việt Nam xác định lòng trung thành với chính quyền cộng sản nhưng Ẩn vẫn phải đi học tập cải tạo 10 tháng ở Hà Nội (Theo Lâm Lễ Trinh, tháng 8/1978 Ẩn phải đi học tập mười tháng tại Viện Chính trị, Bộ Quốc phòng, một loại trại tẩy não về chủ nghĩa Mác-Mao dành cho cán bộ trung và cao cấp.– TM)

Năm 1979, tôi trở lại Việt Nam. Đây là chuyến đầu trong suốt 24 lần tôi đến đây trong 5 năm năm liền. Việc đi lại giữa Sài Gòn của một ký giả ngoại quốc không phải là chuyện dễ trong khoảng thời gian đó, nhưng cuối cùng tôi đã thực hiện được vào năm 1981. Thành phố, Sài Gòn mà tôi biết, lúc ấy rất ảm đạm, lạnh lùng. Khách sạn đầy những “người Mỹ không đô la” (dân Việt Nam gọi người Đông Đức, người Bulgary, người Nga như thế). Công an theo sát bước của tôi đến mọi nơi mọi chỗ. Hàng ngàn người (miền Nam) Việt Nam không được việc làm vì có liên hệ với chính quyền Nguyễn Văn Thiệu đang vượt biển bỏ lại quê hương. Những người ở lại phải bán dần gia sản để sinh tồn.

Mục đích của tôi là đi tìm Ẩn, nhưng đây không phải chuyện dễ làm. Tất cả bản đồ Sài Gòn cũ đã bị tịch thu, đốt bỏ. Những con đường lớn đã đổi tên.

Nhà vẫn có số đấy, nhưng chúng không theo một thứ tự nào khiến không thể tìm nhà được dù có địa chỉ trong tay. Cuối cùng, trong tuyệt vọng, tôi hối lộ quan chức Hà Nội bằng thuốc bổ và tã cho trẻ con mua ở Bangkok và tôi được số điện thoại của Ẩn. Tôi gọi Ẩn. Chúng tôi hẹn gặp nhau ở chợ chim, Ẩn nói, “Tôi sẽ dẫn theo con chó của tôi”.

Lúc nào người ta cũng thấy ông Ẩn dắt theo con chó King. Khi ông viết báo cáo mật và chụp các tài liệu mật thì con chó này cũng đứng nhìn ông.

Ẩn cũng dặn tôi không được nói hay làm gì khi thấy nhau vì công an đang theo dõi. Dường như, đến ngay cả anh hùng, người chỉ huy cả lực lượng tình báo ngoại giao, cũng không thoát khỏi lưới theo dõi. Chợ chim thực ra là lề đường (Huỳnh Thúc Kháng – TM) hai bên chồng chất hàng trăm lồng chim, người mua để thả đi lấy phúc hay nuôi làm chim cảnh. Ẩn đến, dắt theo con béc-giê, chỉ gật đầu khi đi qua mặt nhau. Ẩn và tôi lên hai cái xích lô khác nhau của hai người lính cũ miền nam nghèo khổ. Tôi theo anh ấy về nhà.

Khi đã ở trong nhà, Ẩn bày tỏ nỗi buồn nản, thất vọng ê chề trước hoàn cảnh đất nước của anh. Ẩn thở dài, “Tại sao tham gia cả cuộc chiến chỉ để thay người Mỹ bằng người Nga à?”

Ẩn cũng cho tôi biết, đã hai lần anh đưa gia đình vượt biển, đi trốn và thất bại. Lần đầu, tàu hư máy. Lần thứ hai, người lái tàu không đến, dù tàu tốt, đủ sức vượt biển. Trốn đi bây giờ lại càng khó hơn nhiều, anh nói, vì con trai Ẩn sắp được gởi đi học ở Moscow. Ẩn yêu cầu tôi sang Singapore tìm gặp một người Hoa bí ẩn, nếu được trả đúng giá, sẽ tổ chức cuộc vượt biển. Ẩn nói anh tuyệt vọng rồi.

Tôi viết một thư dài cho Time và gởi phó bản cho tất cả phóng viên của Time đã một thời phục vụ tại Việt Nam. Dự án khá nguy hiểm vì tiếng tăm của Ẩn, tôi viết. Một tướng nổi tiếng và gia đình đi trốn, làm xấu mặt đảng CSVN, nếu thất bại chắc chắn họ sẽ xử tử. Tôi cảnh cáo Time đừng làm những gì có thể xảy ra ngoài tầm kiểm soát của mình.

Time quyết định không tham dự vào dự án đưa người đi trốn, đầy nguy hiểm. Người tị nạn, vượt biển đã đang là mồi ngon cho hải tặc ở vịnh Thái Lan. Tàu đánh cá Thái Lan đâm vào, đánh chìm thuyền người tị nạn, chỉ vớt những thiếu nữ làm đồ tiêu khiển, làm hàng đổi chác giữa các đoàn thuỷ thủ đến khi nạn nhân chết hay phải tự sát. Đây là một quyết định rất khó khăn chúng tôi phải chấp nhận, nhưng tôi hay bất cứ ai khác ở Time đều không có kinh nghiệm đối đầu với quân hải tặc và khả năng rủi ro cho thuyền vượt biển rất lớn trong tình cảnh lúc bấy giờ.

Ẩn ở lại Việt Nam, chờ một ngày sáng sủa hơn. Cuối cùng, ngày ấy đến năm 1986 với chương trình Đổi mới của Hà Nội. Tôi quay lại Việt Nam thăm Ẩn và vợ anh, Nguyễn Thị Thu Nhạn, giữa thập niên 1990 và thấy cả hai có vẻ lạc quan hơn. Đúng như Ẩn lo ngại, con trai anh, Phạm Xuân Hoàng bị gởi đi Moscow, nhưng sau đó lại được phép đi sang North Carolina và cuối cùng tốt nghiệp luật ở Đại học Duke University. Dù được tập đoàn luật sư nước ngoài thuê làm việc với lương 4.000 USD/tháng, Phạm Xuân Hoàng làm việc cho Sở Quan hệ Ngoại giao ở thành phố HCM với số lương 200 USD/tháng. Không như bố, Hoàng không phải là đảng viên đảng cộng sản.

Mả của tên gián điệp việt cộng.

Tuần qua, Ẩn được an táng tại nghĩa trang Sài Gòn. Lời yêu cầu sau cùng của Ẩn: đừng chôn tôi gần người cộng sản.

David DeVoss (Weekly Standard 9/10/2006) Volume 012, Issue 04

Trà Mi lược dịch

 
Mộ phần của điệp viên Phạm Xuân Ẩn: “đừng chôn tôi gần người cộng sản”?

The Quiet Vietnamese Journalist and spy Pham Xuan An led a life of ambiguity

PHAM XUAN AN, the gifted Time magazine war correspondent who secretly served as a spy for Vietnamese Communists in Hanoi during the war, died last week. The obituaries were remarkably kind. An was remembered as an excellent journalist who by day filed dispatches for Time and at night sent microfilm and messages written in invisible ink to Viet Cong lurking in the jungles outside Saigon.

What the obits failed to reveal is that An, whom Hanoi proclaimed a Hero of the People’s Armed Forces following the fall of Saigon, came to loathe the political system he had helped bring to power.

I first met Pham Xuan An in 1972, when I arrived in Vietnam as a 24-year-old war correspondent for Time. By then, An was a legend, a jovial boulevardier nicknamed “General Givral” after the Tu Do Street coffee shop he frequented. Despite the prevailing climate of suspicion, everybody trusted An. When the war ended abruptly in April 1975, his family was evacuated with other Time employees who wished to flee, while An remained and continued to file for Time. “All American correspondents evacuated because of emergency,” he telexed New York. “The office of Time is now manned by Pham Xuan An.” Time’s publetter celebrated his decision to stay and published a picture of him standing on a now deserted street smoking a cigarette and looking pugnacious.

I met his family at Camp Pendleton in California and helped send them to Arlington, Virginia, where they settled. Finally, after a year of silence, his wife received a cable telling her to return home. Despite serious misgivings, she did as instructed. Bringing back his family established An’s loyalty to the new Communist government, but it did not prevent him from receiving ten months of reeducation in Hanoi.

In 1979 I returned to Vietnam. It was the first of 24 trips I would make to the newly united country over the next five years. It was difficult for a foreign reporter to get to Ho Chi Minh City during that period, but I finally managed to do so in 1981. The place I’d known as Saigon was grim. The hotels were full of East Germans, Bulgarians, and Soviets, whom the Vietnamese called “Americans without dollars.” Secret police followed me everywhere. Thousands of Vietnamese denied employment because of their connections with the regime of Nguyen Van Thieu were fleeing the country in leaky fishing boats. Those who remained subsisted by selling family heirlooms.

My goal was to find An, but that was no easy task. Old city maps had been confiscated and burned. All but the major streets had new names. Houses still had numbers, but they were not in sequence, making it nearly impossible to locate a home even if you had the address. Finally, in desperation, I bribed a Hanoi official with baby vitamins and disposable diapers brought in from Bangkok and got An’s phone number. I called and we arranged to meet at the Bird Market. “I’ll be walking my dogs,” he said.

An warned me not to say or do anything when we saw each other because police would be watching. Apparently, not even a decorated hero now in charge of diplomatic intelligence for the government could escape surveillance. The Bird Market actually was a sidewalk both sides of which were stacked high with bamboo cages filled with twittering birds that could be taken home as pets or simply released to improve one’s karma. An had come with his German shepherd, and we passed each other with barely a nod. An and I got into separate cyclos, each peddled by an impoverished veteran of the South’s defeated army, and I followed him home.

Once inside the house, An expressed great sadness over what had become of his country. “Why did we fight a war just to replace Americans with Russians?” he sighed. He confided that twice in the past he had tried unsuccessfully to smuggle his family out of the country. The first time the boat had had an engine problem. The second time, the boat had appeared to be seaworthy but the captain had failed to show. An escape was even more critical now, he said, because his son soon would be sent away to school in Moscow. An asked me to go to Sing apore and seek out a mysterious man at a Chinese hotel who could arrange passage on a boat if paid the right sum of money. An said he was desperate.

I wrote a long memo to Time and sent copies to correspondents still with the magazine who had served in Vietnam. The plan was dangerous because of An’s notoriety, I wrote. If a famous major general and his family were captured trying to escape, embarrassed Communist officials would execute them. I cautioned against starting a chain of events over which Time had no control.

Time decided not to get into the people-smuggling business, which was fraught with danger. In the Gulf of Thai land, Vietnamese refu gees fell prey to pirates. Fishing trawlers rammed and sank their boats, saving only young women who were kept for amusement and then traded between trawler crews until they died or committed suicide. It was a difficult decision to make, but neither I nor anyone else at Time had experience dealing with these sorts of people, and the odds of something going wrong seemed enormous.

An stayed in Vietnam, waiting for better times. They finally arrived in 1986 in the form of doi moi, Hanoi’s attempt at perestroika. I returned to see him and his wife, Hoang Thi Thu Nhan, in the mid-1990s and found them both relatively optimistic. As An had feared, his son Pham Xuan Hoang An was sent to Moscow, but later he was allowed to travel to North Carolina, where eventually he received a law degree from Duke University. Although foreign law firms have offered jobs paying up to $4,000 a month, Pham Xuan Hoang An works for the Department of Foreign Relations in Ho Chi Minh City, where he earns $200 a month. Unlike his father, he is not a member of the Communist party.

Last week, Pham Xuan An was laid to rest in Saigon’s City Cemetery. His final request was not to be buried too close to Communists.

David DeVoss
Điệp viên Cộng Sản Phạm Xuân Ẩn: Xin Đừng Chôn Tôi Gần Cộng Sản! Reviewed by Unknown on 1/16/2014 Rating: 5 Người gián điệp và nhà báo trầm lặng – Phạm Xuân Ẩn và cuộc đời hư thực David DeVoss : Phạm Xuân Ẩn, phóng viên chiến tranh tài hoa ...

Không có nhận xét nào: