VRNs (21.05.2014) – Sài Gòn – Sự phá sản trong chính sách Trung quốc chứng minh sự sai lầm cực kì nguy hiểm của nhóm cầm đầu chế độ toàn trị
Đòi quyền tuyệt đối thì phải nhận trách nhiệm tuyệt đối!
Trung ương đảng chỉ được nghe nhưng không được thảo luận!
Các hành động xâm lấn biến biển Đông thành cái ao của Trung quốc!
Những nguyên do nào dẫn tới phá sản trong chính sách Trung quốc?
Việc Tập Cận Bình để gần 100 tầu chiến, phi cơ, tầu hải giám… hộ tống giàn khoan dầu khủng HD 981 vào sâu trong thềm lục địa VN và lại từ chối yêu cầu của Nguyễn Phú Trọng sang Bắc kinh đàm phán, đây là đỉnh cao chứng tỏ sự phá sản toàn bộ chính sách Trung quốc của nhóm cầm đầu CSVN. Rõ ràng đây là hậu quả của chính sách trao trứng cho ác, xây nhà trên cát của những người cầm đầu chế độ độc tài toàn trị !
Ban chấp hành Trung ương ĐCSVN vừa mở Hội nghị Trung ương 9 (HNTU) kéo dài cả một tuần từ 8 tới 14.5.2014. Theo Điều lệ Đảng, đây là cơ quan cao nhất thảo luận và quyết định các chính sách hệ trọng. ĐCSVN là đảng cầm quyền độc quyền nên mọi quyết định và hành động của chính quyền đảng này sẽ gây tác động trực tiếp tới quyền lợi của nhân dân và tương lai của đất nước. Cương lĩnh chính trị 2011 và Hiến pháp 2013 cũng tiếp tục giành độc tôn cho ĐCSVN và đảng này tự phong là lực lượng tiên phong, lực lượng chính trị duy nhất và chính đáng lãnh đạo toàn bộ đất nước.
Quyền cao thì trách nhiệm phải lớn. Đã đòi quyền tuyệt đối cho mình thì chính mình cũng phải nhận trách nhiệm tuyệt đối những việc mình làm và những hậu quả của nó! Đây là thước đo lương tâm, trí tuệ và thái độ của những người cầm đầu chế độ toàn trị đối với nhân dân VN và dư luận quốc tế!
Trong khi TBT Nguyễn Phú Trọng kiêm Bí thư Quân ủy Trung ương, tức Tổng tư lệnh các lực lượng quân sự đọc diễn văn khai mạc tại HNTU 9 thì đúng một tuần trước đó ngày 1.5 gần 100 tầu hải quận, trực thăng quận sự, hải giám, kiểm ngư của Trung quốc đã hộ tống giàn khoan dầu khổng lồ nhất của Trung quốc vào sâu trong thềm lục địa VN cách đảo Lý Sơn chừng 119 hải lý (221km), thuộc lô 143 trên bản đồ dầu khí của Việt Nam để thăm dò dầu khí theo quyết định của Chủ tịch nước và Tổng bí thư ĐCS Trung quốc Tập Cận Bình. Nhưng trong các cuộc gặp cấp cao trước đây hai bên đều thề thốt không bên nào được phép làm xấu tình hình đi. Từ sau Hội nghị bí mật ở Thành đô (Trung quốc) đầu tháng 9.1990 ĐCSVN đã coi ĐCS Trung quốc là đồng minh tin cậy nhất, và chính ông Trọng đã coi Tập Cận Bình là „Bạn“ chân tình.
Như vậy với việc dựng giàn khoan HD 981 ngay trong thềm lục địa VN đồng thời dùng gần 100 tầu chiến, phi cơ, các tầu hải giám hộ tống HD 981 ngay trên thềm lục địa VN từ 1.5, nhà cầm quyền Bắc kinh đã xâm lấn ngang ngược lãnh thổ, tài nguyên, đồng thời vi phạm nghiêm trọng chủ quyền của VN. Sự kiện này chứng minh hiển nhiên là Tập Cận Bình đã coi thường các thỏa thuận với Nguyễn Phú Trọng, Trương Tấn Sang và Nguyễn Tấn Dũng…
Nhưng từ diễn văn khai mạc và bế mạc của Nguyễn Phú Trọng, tới các thông cáo hoạt động từng ngày của Hội nghị tuyệt nhiên không có một đoạn nào công khai kết án hành động xâm lược trắng trợn và vi phạm nghiêm trọng chủ quyền của VN từ phía Bắc kinh. Như vậy là Nguyễn Phú Trọng, người cầm đầu chế độ toàn trị, đã đặt „tình bạn“ với Tập Cận Bình trên quyền lợi của đất nước, trên danh dự của tổ quốc? Hay sự nhu nhược và tham quyền-tiền của nhóm cầm đầu trong Bộ chính trị đã bắt họ phải câm miệng? Vậy căn cứ ngay trên Điều lệ Đảng, Cương lĩnh Chính trị 2011 và Hiến pháp 2013. ông Trọng và những người có quyền lực nhất trong Bộ chính trị có còn đủ tư cách và uy tín lãnh đạo đất nước nữa không?
Giải pháp cho đặt giàn khoan HD 981 trên thềm lục địa VN đã được Bắc kinh chuẩn bị từ lâu
Giàn khoan dầu HD 981 là một giàn khoan khổng lồ, có trọng tải 31,000 tấn, dài 114 m, rộng 90 m, cao 137.8 m. Vì thế theo sự tính toán của nhiều chuyên viên quốc tế, muốn di chuyển giàn khoan khổng lồ này một đoạn đường xa cả ngàn cây số thì phải cần nhiều tuần lễ. Nói một cách khác, đưa giàn khoan này vào hoạt động ngay trên thềm lục địa VN đã được giới cầm quyền cao nhất Bắc kinh quyết định xong từ lâu, vấn đề còn lại chỉ là vào thời điểm nào thì Bắc kinh có thể ra tay hành động thuận lợi nhất mà thôi.
Từ đầu năm 2014 Bắc kinh đã chuẩn bị dư luận quốc tế, đồng thời nắn bóp gân và định hướng tư tưởng cùng thái độ của nhóm cầm đầu Hà nội cho kế hoạch này của họ:
- Ngay từ đầu tháng 1 Bắc kinh đã ra lệnh cho tầu bè quốc tế muốn đánh cá và thăm dò tài nguyên trong khu vực „đường lưỡi bò“ ở biển Đông phải xin phép và chịu sự kiểm soát của hải quân Trung quốc. Cùng lúc họ còn bắn tin cho thế giới biết, Phó Chủ nhiệm Uỷ ban Quốc gia về biên giới-lãnh thổ Bộ Ngoại giao Việṭ Nam sang Bắc kinh̃ tiến hành “vòng tham vấn thứ nhất về cùng khai thác trên biển giữa hai nước Trung-Việt”. Qua đó họ muốn để dư luận quốc tế coi như chuyện đã xong trong hai việc:1. Khu vực „đường lưỡi bò“ do Bắc kinh từ định ra và chiếm tới 3 triệu km2 ở biển Đông là thuộc chủ quyền của Trung quốc. 2. Nhà cầm quyền Hà nội đã thỏa thuận các quyết định này của Bắc kinh, nên mới cử phái đoàn sang Bắc kinh thảo luận lần thứ nhất về việc“cùng khai thác trên biển“.
- Giữa tháng 1.2014 trong cuộc điện đàm qua đường giây nóng Tập Cận Bình đã thành công trong việc bắt Nguyễn Phú Trọng phải thực hiện tiêu chí mà cấp cao hai bên đã thỏa thuận từ đầu thập niên 90 là „khép lại quá khứ, hướng tới tương lai“. Vì thế đã không để thanh niên và trí thức VN được quyền tổ chức các buổi lễ kỉ niệm 40 năm Bắc kinh xâm chiếm Hoàng sa của VN (19.1.1974-19.1.2014) và 35 năm chiến tranh biến giới phía Bắc (17.2.1979-17.2.2014).
- Cũng theo chiều hướng đó, cuối năm 2013 Bắc kinh cũng đã thành công trong việc bắt nhóm cầm đầu CSVN cấm báo chí được phổ biến các nhận định hay tuyên bố bất lợi cho Bắc kinh, dù đó là của người cầm đầu chính phủ. Ngày 30.12.13 một số báo lề đảng đã nhắc lại tuyên bố nẩy lửa của Nguyễn Tấn Dũng tại cuộc gặp với Hội nghiên cứu Lịch sử VN là:
„Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng cho biết, hiện Bộ Ngoại giao đang lên kế hoạch kỷ niệm 40 năm sự kiện (1974) Trung quốc đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam và 35 năm sự kiện tháng 2 năm 1979 – chiến tranh bảo vệ biên giới phía Bắc.“
Nhưng chỉ ngày hôm sau các bài này đã bị bóc đi, Nguyễn Tấn Dũng nín thinh!
-Trước đó hai tuần tại Hội nghị ngành Ngoại giao lần 28 Nguyễn Phú Trọng đã công khai cho biết, các quyết định về đường lối đối ngoại, quốc phòng, an ninh, chủ quyền và độc lập.. „đều phải tập trung vào một đầu mối dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Bộ Chính trị và Ban Bí thư”. Nói khác, quyết định cuối cùng là TBT Nguyễn Phú Trọng:
„Kiên định nguyên tắc Đảng lãnh đạo tuyệt đối và thống nhất quản lý hoạt động đối ngoại. Thống nhất quản lý đối ngoại cả về chính trị, kinh tế, văn hóa, quốc phòng, an ninh… là một yêu cầu vừa lâu dài, cơ bản, vừa có tính thời sự cấp bách. Theo tinh thần đó, mọi quyết định và hoạt động đối ngoại, nhất là những vấn đề liên quan đến sự ổn định và phát triển của đất nước, đến độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh và danh dự quốc gia, đều phải tập trung vào một đầu mối dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Bộ Chính trị và Ban Bí thư”
-Từ tháng 2 cuộc khủng hoảng ở Ukraine trở nên cực kì trầm trọng với việc TT Putin bất chấp Hiệp ước An ninh và Hợp tác Âu châu cũng như Công pháp quốc tế đã sát nhập bán đảo Krim của Ukraine vào Nga. Mĩ và EU phải tập trung toàn bộ để giải quyết cuộc khủng hoảng này ở Âu châu. Bắc kinh đã thấy đây là thời điểm thuận lợi nên đã âm thầm thực hiện kế hoạch di chuyển giàn khoan HD 981 xuống biển Đông và hoàn thành việc này chỉ ít ngày sau chuyến thăm 4 nước Á châu của TT Mĩ Obama vào cuối tháng 4 là Nhật, Nam Hàn, Mã lai Á và Phi luật tân.
HNTU9 hoàn toàn im lặng trước cuộc xâm lấn ngang ngược của Bắc kinh
Trong vai trò của một đảng độc quyền cai trị và tự khoác cho minh độc tôn lãnh đạo đất nước thì đúng ra người đứng đầu đảng là Nguyễn Phú Trọng phải thông báo ngay và đầy đủ về hành động xâm lấn của Bắc kinh từ ngày 1.5 khi giàn khoan khủng HD 981 tiến vào thềm lục địa VN với sự hộ tống và bảo vệ của gần trăm tầu chiến, phi cơ, tầu hải giám… của Trung quốc. Vì đây là trách nhiệm của người cầm đầu chế độ.
Trong các diễn văn khai mạc và bế mạc ông Trọng đã không thông báo cho nhân dân và cũng không cho thảo luận ở HNTU 9 họp suốt trong một tuần. Mãi hai ngày trước ngày khai mạc HNTU 9 báo chí chế độ toàn trị mới đưa tin Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh đã điện đàm với người đồng nhiệm Trung quốc để kết án hành động xâm lấn này. Ngày 13.5 tờ NewYork Times đã cho biết, Nguyễn Phú Trọng đã tìm cách điện đàm với Tập Cận Bình và đề nghị sẵn sàng sang Bắc kinh để giải quyết cuộc tranh chấp này. Nhưng Tập Cận Bình đã nhất mực từ chối đề nghị của ông Trọng. Tuy nhiên các việc làm này ông Trọng cũng không thông tin trực tiếp cho nhân dân và trong Đảng! Ém nhẹm như vậy có phải sợ mất lòng họ Tập? Hay sợ rằng nhân dân sẽ phê bình sự bất lực và nhu nhược? Trong diễn văn khai mạc ngày 8.5 tuyệt nhiên không thấy Nguyễn Phú Trọng nhắc một lần nào biến cố thời sự cực kì quan trọng và nguy hiểm này. Mãi tới ngày 11.5 ông mới để Nguyễn Tấn Dũng kết án Bắc kinh tại Hội nghị Cấp cao Asean ở thủ đô Miến điện. Nhưng trong Thông cáo chung kết thúc của Hội nghị này đã không kết án Trung quốc mà chỉ khuyên các bên giải quyết êm thắm cuộc tranh chấp. Có phải vì các nước trong Asean không tin cậy lẫn nhau hay chính vì nhiều nước đã thấy rõ thái độ mập mờ với Bắc kinh của ngay người cầm đầu chế độ toàn trị VN trong HNTU 9?
Sau khi hàng ngàn người biểu tinh ngày Chủ nhật 11.5 ở Hà nội, Sài gòn và nhiều thành phố khác kết án sự xâm lấn của Bắc kinh và đòi Bắc kinh phải rút giàn khoan HD 981 ngay ra khỏi thềm lục địa VN, tứ trụ triều đình toàn trị Trọng-Sang-Dũng-Hùng cũng không lên tiếng ủng hộ, trái lại còn cho công an chìm nổi phá rối và mua chuộc, tìm cách biến các cuộc biểu tình này thành ủng hộ đường lối của chế độ! Trong diễn văn dài bế mạc HNTU 14.5 Nguyễn Phú Trọng chỉ nhắc vỏn vẹn hai lần tới biển Đông, lần đẩu sơ qua, mãi lần hai mới nói „tình hình Biển Đông hiện đang diễn biến rất phức tạp, nghiêm trọng“…Nhưng tuyệt nhiên ông ta tránh không đả động tới diễn biến nghiêm trộng như thế nào và nước nào là thủ phạm gây ra tình trạng nghiêm trọng hiện nay trên biển Đông. Nghĩa là Nguyễn Phú Trọng vẫn không dám nêu đích danh nhà cầm quyền Bắc kinh ra kết án! Mãi phần cuối của Thông báo HNTU 9 mới nhắc tới điểm này. Nhưng lời lẽ hé lộ ra thật rất lạ lùng:
„Ban Chấp hành Trung ương theo dõi sát tình hình, nghe báo cáo của các cơ quan chức năng về việc thực hiện các chủ trương, giải pháp của ta phản đối, đấu tranh đòi phía Trung Quốc phải dừng việc đặt giàn khoan thăm dò dầu khí Hải Dương 981 trong vùng biển nước ta…“
Qua đó cho thấy, dù là cơ quan cao nhất của Đảng giữa hai nhiệm kì, nhưng tại HNTU 9 Ban chấp hành trung ương cũng chỉ được „nghe báo cáo“ của các cơ quan cấp dưới, nhưng tuyệt nhiên không có thảo luận gì!
Trước tình hình nghiêm trọng đất nước đang bị xâm lăng, nhưng HNTU 9 đã không thảo luận mà chỉ tập trung vào việc chuẩn bị tổ chức Đại hội 12 làm thế nào để tiếp tục giữ độc quyền cho ĐCS. Còn về chính sách văn hóa thì HNTU 9 vẫn lập lại những khẩu hiệu rỗng tuyếch và răn đe trừng trị „tự diễn biến, tự chuyển hóa“ trong Đảng và ngăn cấm các hoạt động văn hóa và báo chí lề trái, như việc hủy bỏ luận văn “Vị trí kẻ bên lề: Thực hành thơ của nhóm Mở Miệng từ góc nhìn văn hóa“ của chị Đỗ Thị Thoan và bắt giam nhiều Blogger gần đây đang gây bất bình trong nhiều giới ở trong và ngoài nước và dư luận quốc tế kết án nghiêm khắc!:
„Chủ động đấu tranh phòng, chống các biểu hiện suy thoái về tư tưởng, đạo đức, “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trên lĩnh vực văn hóa. Quản lý tốt hơn việc sử dụng dịch vụ Internet và thông tin điện tử trên Internet. Ngăn chặn có hiệu quả tình trạng một bộ phận báo chí, xuất bản, văn hóa, văn nghệ hoạt động không đúng tôn chỉ, mục đích, sa đà vào những thông tin, sản phẩm lệch lạc, thị hiếu tầm thường. Tích cực đấu tranh với những biểu hiện lai căng, những sản phẩm độc hại, những hành vi phi văn hóa, phản văn hoá…“
Tóm lại, mặc dù Bắc kinh đã xâm phạm ngang ngược vùng biển VN trước và trong thời gian HNTU 9 họp; tức là lãnh thổ, chủ quyền và độc lập đang bị đe dọa nghiêm trọng, nhưng tuyệt nhiên Ban chấp hành Trung ương tại HNTU 9 đã không được phép bàn tới vấn đề nóng bỏng và cực kì hệ trọng tới tương lai đất nước. Sự kiện này lại chứng minh một lần nữa rất rõ ràng là, vì quyền-tiền nên cả phe bảo thủ lẫn các nhóm lợi ích từ Bộ chính trị tới Trung ương đảng đã thỏa hiệp ngầm với nhau và không giám đưa việc xâm lấn của Bắc kinh ra thảo luận công khai trong HNTU 9. Vì họ lo sợ rằng, đưa vấn đề này ra thảo luận trong HNTU 9 thì chẳng khác gì cởi áo cho người xem lưng và số phận của chế độ và cả chính họ không biết sẽ đi về đâu! Vì hầu hết 16 ủy viên Bộ chính trị đều đã từng phất cao ngọn cờ „16 chữ vàng“ và „4 tốt“ của Bắc kinh, nếu nay đem chính sách với Bắc kinh ra thảo luận sẽ khơi sâu thêm sự phân hóa và kình chống giữa các phe và làm trò cười trước nhân dân VN và dư luận quốc tế!
Các hành động xâm lấn từng bước của Bắc kinh biển biển Đông thành cái hồ của Trung quốc
Giàn khoan HD 981 đang đứng sừng sững ngang ngược trong hải phận VN chỉ là một chuỗi các chuẩn bị và hành động xâm lấn có tính toán từ lâu của Bắc kinh. Bất chấp thỏa thuận giữa cấp cao của hai bên là không được làm căng thẳng tình hình biển Đông, nhưng trong nhiềm năm qua nhằm thực hiện mục tiêu biến biển Đông thành cái ao của Trung quốc và từ đó thực hiện “Giấc mơ vĩ đại của Trung quốc” mà chính Tập Cận Bình đã tuyên bố toạc ra sau khi làm Tổng bí thư ĐCSTrung quốc và Chủ tịch Trung quốc.
Chỉ liệt kê một số hành động xâm lấn có tính toán của Bắc kinh trong vài năm trở lại đây:
- Như cho các tầu hải quân Trung quốc ba lần xâm phạm hải phận VN và phá các hoạt động kinh tế VN trong năm 2011.
- Lập căn cứ quân sự và cho các đơn vị quân đội Trung quốc đóng thường trú ở Hoàng sa.
-Tháng 7. 2012 cho lập thành phố Tam sa trong đó có quần đảo Hoàng sa, nơi đang có tranh chấp với VN, thành cơ sở hành chánh mới của Trung quốc, nghĩa là mặc nhiên coi Hoàng sa là lãnh thổ của Trung quốc.
- Các chiến hạm Trung quốc thường xuyên tuần tra trên khu vực đang có tranh chấp với VN và nhiều nước Đông nam Á.
- Cho cả ngàn tầu đánh cá Trung quốc ồ ạt xuống biển Đông đánh cá dưới sự hộ tống của hải quân Trung quốc.
- Trong khi đó nhiều tầu đánh cá và ngư dân VN đã bị các tầu hải quân Trung quốc săn đuổi, bắn phá và gây thiệt mạng cũng như thương tích.
-Đầu năm nay còn leo thang thêm với việc ra lệnh tầu ngoại quốc đánh cá và thăm dò trong khu vực „lưỡi bò“ phải xin phép Trung quốc, như nói ở phần đầu.
-Áp lực với giới cầm đầu CSVN cấm các cuộc biểu tình của nhân dân VN chống chính sách bành trướng của Bắc kinh và ngăn cản các lễ kỉ niệm 19.1 và 17.2.; áp lực với nhóm cầm đầu Hà nội cấm báo chí viết bài không có lợi cho Bắc kinh và bắt giam nhiều Blogger từng tố cáo sự xâm lấn của Bắc kinh.
Bắc kinh đã thành công vì nhóm cầm đầu CSVN mang nặng bệnh tâm lí tự ti mặc cảm, thái độ cúi đầu và tư tưởng sai lầm lạc hậu
Câu hỏi trung tâm ở đây là, làm sao Bắc kinh đã có thể tự do hoành hành xâm lấn biển Đông như chỗ không có chủ trong các năm qua? Muốn giải đáp câu hỏi này thì cần biết rõ, những người cầm đầu chế độ toàn trị CSVN đã đối xử như thế nào với giới lãnh đạo Bắc kinh, sáng suốt hay u mê, can đảm hay nhu nhược? Đứng về phía nhân dân hay o bế Bắc kinh? Ở đây chỉ liệt kê một số hoạt động của họ trong vài năm gần đây:
-Năm 2010 khi tình hình biển Đông ngày càng căng thẳng, khi đó với tư cách Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Phú Trọng đã tuyên bố trước UBTVQuốc hội là „Tình hình biển Đông không có gì mới“ và cấm không cho Quốc hội được đưa vấn đề biển Đông ra thảo luận.
- Để vận động cho chuyến thăm ra mắt Bắc kinh vào tháng 10.2011với tư cách tân TBT, mùa hè 2011 Nguyễn Phú Trọng đã phái hai Thứ trưởng Quốc phòng sang uốn lưỡi lấy lòng phương Bắc.Trong khi Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh, Thứ trưởng quốc phòng và phụ trách đối ngoại, đã tuyên bố “Một thực tế hiển nhiên là Trung quốc cam kết không lấy đất, lấy biển của Việt Nam.“ Còn Tướng Ngô Xuân Lịch, Chủ nhiệm Tổng cục chính trị, thì hứa với Bắc kinh „Việt Nam không có ý định quốc tế hóa các vấn đề tranh chấp trên Biển Đông. Vấn đề tranh chấp giữa hai nước thì do hai nước giải quyết.“
- Trong khi tình hình biển Đông tiếp tục căng thẳng, trước chính sách xâm lấn của Bắc kinh khiến Phi luật tân đã phải kiện Trung quốc tại Tòa án quốc tế, nhưng vì sợ Bắc kinh nên Hà nội không dám ủng hộ Phi luật tân, một thành viên trong Asean. Giữa khi ấy Nguyễn Tấn Dũng đã huyênh hoang tại cuộc hội thảo quốc tế „Đối thoại Shangri-La“ vào cuối tháng 5 đầu tháng 6 tại Singapore vẫn còn nuôi „Xây dựng lòng tin chiến lược vì hòa bình, hợp tác, thịnh vượng“ với Bắc kinh. Làm thế có khác nào trao trứng cho ác!
- Giữa tháng 12.2013 khi về HN dự Hội nghị Ngoại giao do Nguyễn Phú Trọng chủ trì, Đại sứ VN tại Trung quốc Nguyễn Văn Thơ cũng theo chiều hướng tùng phục như vậy đã nói với báo chí về chính sách ngoại giao trước sau của Hà nội với Bắc kinh là „Chúng ta không có hai lòng.“ Nghĩa là theo chủ trương trung thần bất sự nhị quân, coi Trung quốc là thiên triều, còn VN là thuộc quốc như thời phong kiến vài thế kỉ trước!
Những lời tuyên bố vừa ngênh ngang vừa ngờ ngệch trên của những người cầm đầu Đảng, Chính phủ hay những người có trách nhiệm về quốc phòng, ngoại giao đã cho thấy thái độ ươn hèn và những quan điểm cực kì sai lầm về các ý đồ và chính sách của Bắc kinh…Nó bắt nguồn từ tư duy cực kì lạc hậu và tâm lí tự ti mặc cảm của giới lãnh đạo toàn trị còn sót lại từ thời phong kiến. Đặc biệt bệnh tâm lí tự ti mặc cảm đối với phương Bắc trở thành căn bệnh nặng của Nguyễn Phú Trọng. Ông tỏ ra rất hãnh diện khi được người cầm trịch ở Bắc kinh chú ý và tự khen với thái độ vui như con nít ngay trước hội nghị quan trọng của Đảng. Ông Trọng coi việc Hồ Cẩm Đào khi ấy là Tổng bí thư kiêm Chủ tịch nước đã cử đặc phái viên sang mừng Nguyễn Phú Trọng được cử làm Tổng bí thư (1.2011) là một niềm hãnh diện lớn:
“Chưa bao giờ ngay sau Đại hội, một số đảng anh em như … Đảng Cộng sản Trung quốc cử đặc phái viên của Tổng bí thư, Chủ tịch nước sang gặp Tổng bí thư ta để trực tiếp chúc mừng thành công của Đại hội”!
Từ tâm lí tự ti mặc cảm với phương Bắc, cho nên sung sướng và hãnh diện được kết „bạn“ với Bắc kinh là logik rất biện chứng của ông Trọng. Điều này Nguyễn Phú Trọng đã nói rõ trước mặt cả hơn ngàn cán bộ trung và cao cấp tại Hội nghị Cán bộ toàn quốc ngày 27.2.2012. Khi nhắc tới các nhà lãnh đạo Bắc kinh, ông Trọng luôn luôn tỏ vẻ kính trọng, như „BẠN thường nhấn mạnh, không để bị „Tây hóa, tha hóa, thoái hóa!“ Một điều bạn bảo, hai điều bạn khuyên, sự cung kính như thế có khác nào như thái độ coi đó như những lời bố dậy bảo!
Cho nên không lạ, khi người đứng đầu giữ thái độ khúm núm và tự ti như vậy, coi Bắc kinh như thiên triều ngày xưa, thì chẳng trách những người dưới quyền cũng quị lụy như vậy, đồng thời còn ra tay ru ngủ cả toàn Trung ương đảng và quân đội! Chính vì vậy nên Bắc kinh đã được đằng chân lân đằng đầu. Việc Bắc kinh cho cả gần trăm tầu chiến, phi cơ quân sự, hải giám hộ tống giàn khoan khủng HD 981 vào sâu trong thềm lục địa VN hiện nay rõ ràng là hậu quả tất yếu của thái độ nhu nhược và cực kì sai lầm của Nguyễn Phú Trọng và những người cầm đầu chế độ toàn trị.
Đối với Bắc kinh thì quị lụy cúi đầu, cùng „xây dựng lòng tin chiến lược“, nhưng với nhân dân, thanh niên và trí thức VN thì Nguyễn Phú Trọng lại khinh thường, ngạo mạn. Khi nhiều trí thức, nhân sĩ từ trong Đảng tới ngoài xã hội tố cáo việc sửa đổi Hiến pháp giả vờ, Nguyễn Phú Trọng đã rất hách dịch kết án họ là „suy thoái đạo đức“. Cũng vẫn giữ cách phách lối đó, trong HNTU 9 Nguyễn Phú Trọng đã đe dọa những người dân chủ và cả những đảng viên tiến bộ:
„Chủ động đấu tranh phòng, chống các biểu hiện suy thoái về tư tưởng, đạo đức, “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trên lĩnh vực văn hóa. Quản lý tốt hơn việc sử dụng dịch vụ Internet và thông tin điện tử trên Internet..“
Còn người cầm đầu chính phủ Nguyễn Tấn Dũng không bỏ lỡ một cơ hội nào để tung hô dân chủ, bảo vệ chủ quyền; nhưng chỉ là trò đánh trống bỏ dùi, làm người bán dạo ở đường phố, ưu tiên đầu tiên vẫn là quyền tiền và gia đình, trước sau vẫn khinh thường trí thức và đàn áp những người dân chủ!
Nói tóm lại, việc Bắc kinh ngang ngược cho cả gần 100 tầu chiến, phi cơ, tầu hải giảm và kiểm ngư hộ tống giàn khoan đầu khủng HD 981 vào sâu trong thềm lục địa của VN từ 1.5 và việc Tập Cận Bình quyết liệt từ chối lời yêu cầu của Nguyễn Phú Trọng sang Bắc kinh thảo luận đã cho thấy sự phá sản toàn bộ trong chinhq1 sách với Trung quốc của nhóm cầm đầu chế độ toàn trị CSVN. Mặc dù VN ngày nay xét cả về diện tích, dân số và tài nguyên là nước trung bình cả trong khu vực lẫn thế giới. Cả thế giới đang bước vào thời đại toàn cầu hóa cả trong kinh tế lẫn chính trị và kỉ nguyên thông tin điện tử đang có sức mạnh đánh tan đêm tối độc tài và tiến vào quĩ đạo dân chủ. Nhưng nhóm cầm đầu chế độ toàn trị ở VN tới nay vẫn chưa nhận ra được và cũng không dám nhìn nhận những sai lầm và cực kì nguy hiểm cho đất nước trong chính sách với Bắc kinh của họ. Vì thế đã dẫn tới sự phá sản toàn bộ của chính sách này. Biến cố HD 981 là một điểm cao mới chứng minh sự phá sản này.
Sự phá sản chính sách đối với Trung quốc nằm chính ngay trong đầu của những lãnh đạo CSVN. Do tư duy cực kì bảo thủ coi ý thức hệ CS.. cao hơn lợi ích của dân tộc, nên họ nhận định hoàn toàn sai lầm về ý đồ của Bắc kinh. Tâm lí tự ti mặc cảm đã khiến họ sẵn sàng thần phục và quỵ lụy Bắc kinh như thời phong kiến. Trong khi ấy đối với nhân dân thì họ chỉ tính lừa đảo, khinh thường trí thức và thanh niên, đàn áp những người dân chủ và đang tăng cường trấn áp cả những đảng viên tiến vộ, biết quí lòng tự trọng!
Họ đòi quyền cao tuyệt đối cho Đảng trong mọi lãnh vực, trong đó có chính sách đối ngoại. Nay chính sách với Bắc kinh đã hoàn toàn thất bại và phá sản, nhưng họ không nhận trách nhiệm. Không những thế họ lại còn không cho Trung ương đảng thảo luận về những nguy cơ của đất nước, không cho nhân dân –đi đầu là trí thức, thanh niên- được quyền biểu tình ôn hòa chống lại sự xâm lấn của Bắc kinh. Như thế vài người đứng đầu trong Bộ chính trị đã trở thành siêu độc tài và đang củng cố quyền lực với việc thực hiện câu nói của Mao Trạch Đông: Trí thức chỉ như cục phân, nhân dân như cỏ dại!
Đòi quyền tuyệt đối thì phải nhận trách nhiệm tuyệt đối!
Trung ương đảng chỉ được nghe nhưng không được thảo luận!
Các hành động xâm lấn biến biển Đông thành cái ao của Trung quốc!
Những nguyên do nào dẫn tới phá sản trong chính sách Trung quốc?
Việc Tập Cận Bình để gần 100 tầu chiến, phi cơ, tầu hải giám… hộ tống giàn khoan dầu khủng HD 981 vào sâu trong thềm lục địa VN và lại từ chối yêu cầu của Nguyễn Phú Trọng sang Bắc kinh đàm phán, đây là đỉnh cao chứng tỏ sự phá sản toàn bộ chính sách Trung quốc của nhóm cầm đầu CSVN. Rõ ràng đây là hậu quả của chính sách trao trứng cho ác, xây nhà trên cát của những người cầm đầu chế độ độc tài toàn trị !
Ban chấp hành Trung ương ĐCSVN vừa mở Hội nghị Trung ương 9 (HNTU) kéo dài cả một tuần từ 8 tới 14.5.2014. Theo Điều lệ Đảng, đây là cơ quan cao nhất thảo luận và quyết định các chính sách hệ trọng. ĐCSVN là đảng cầm quyền độc quyền nên mọi quyết định và hành động của chính quyền đảng này sẽ gây tác động trực tiếp tới quyền lợi của nhân dân và tương lai của đất nước. Cương lĩnh chính trị 2011 và Hiến pháp 2013 cũng tiếp tục giành độc tôn cho ĐCSVN và đảng này tự phong là lực lượng tiên phong, lực lượng chính trị duy nhất và chính đáng lãnh đạo toàn bộ đất nước.
Quyền cao thì trách nhiệm phải lớn. Đã đòi quyền tuyệt đối cho mình thì chính mình cũng phải nhận trách nhiệm tuyệt đối những việc mình làm và những hậu quả của nó! Đây là thước đo lương tâm, trí tuệ và thái độ của những người cầm đầu chế độ toàn trị đối với nhân dân VN và dư luận quốc tế!
Trong khi TBT Nguyễn Phú Trọng kiêm Bí thư Quân ủy Trung ương, tức Tổng tư lệnh các lực lượng quân sự đọc diễn văn khai mạc tại HNTU 9 thì đúng một tuần trước đó ngày 1.5 gần 100 tầu hải quận, trực thăng quận sự, hải giám, kiểm ngư của Trung quốc đã hộ tống giàn khoan dầu khổng lồ nhất của Trung quốc vào sâu trong thềm lục địa VN cách đảo Lý Sơn chừng 119 hải lý (221km), thuộc lô 143 trên bản đồ dầu khí của Việt Nam để thăm dò dầu khí theo quyết định của Chủ tịch nước và Tổng bí thư ĐCS Trung quốc Tập Cận Bình. Nhưng trong các cuộc gặp cấp cao trước đây hai bên đều thề thốt không bên nào được phép làm xấu tình hình đi. Từ sau Hội nghị bí mật ở Thành đô (Trung quốc) đầu tháng 9.1990 ĐCSVN đã coi ĐCS Trung quốc là đồng minh tin cậy nhất, và chính ông Trọng đã coi Tập Cận Bình là „Bạn“ chân tình.
Như vậy với việc dựng giàn khoan HD 981 ngay trong thềm lục địa VN đồng thời dùng gần 100 tầu chiến, phi cơ, các tầu hải giám hộ tống HD 981 ngay trên thềm lục địa VN từ 1.5, nhà cầm quyền Bắc kinh đã xâm lấn ngang ngược lãnh thổ, tài nguyên, đồng thời vi phạm nghiêm trọng chủ quyền của VN. Sự kiện này chứng minh hiển nhiên là Tập Cận Bình đã coi thường các thỏa thuận với Nguyễn Phú Trọng, Trương Tấn Sang và Nguyễn Tấn Dũng…
Nhưng từ diễn văn khai mạc và bế mạc của Nguyễn Phú Trọng, tới các thông cáo hoạt động từng ngày của Hội nghị tuyệt nhiên không có một đoạn nào công khai kết án hành động xâm lược trắng trợn và vi phạm nghiêm trọng chủ quyền của VN từ phía Bắc kinh. Như vậy là Nguyễn Phú Trọng, người cầm đầu chế độ toàn trị, đã đặt „tình bạn“ với Tập Cận Bình trên quyền lợi của đất nước, trên danh dự của tổ quốc? Hay sự nhu nhược và tham quyền-tiền của nhóm cầm đầu trong Bộ chính trị đã bắt họ phải câm miệng? Vậy căn cứ ngay trên Điều lệ Đảng, Cương lĩnh Chính trị 2011 và Hiến pháp 2013. ông Trọng và những người có quyền lực nhất trong Bộ chính trị có còn đủ tư cách và uy tín lãnh đạo đất nước nữa không?
Giải pháp cho đặt giàn khoan HD 981 trên thềm lục địa VN đã được Bắc kinh chuẩn bị từ lâu
Giàn khoan dầu HD 981 là một giàn khoan khổng lồ, có trọng tải 31,000 tấn, dài 114 m, rộng 90 m, cao 137.8 m. Vì thế theo sự tính toán của nhiều chuyên viên quốc tế, muốn di chuyển giàn khoan khổng lồ này một đoạn đường xa cả ngàn cây số thì phải cần nhiều tuần lễ. Nói một cách khác, đưa giàn khoan này vào hoạt động ngay trên thềm lục địa VN đã được giới cầm quyền cao nhất Bắc kinh quyết định xong từ lâu, vấn đề còn lại chỉ là vào thời điểm nào thì Bắc kinh có thể ra tay hành động thuận lợi nhất mà thôi.
Từ đầu năm 2014 Bắc kinh đã chuẩn bị dư luận quốc tế, đồng thời nắn bóp gân và định hướng tư tưởng cùng thái độ của nhóm cầm đầu Hà nội cho kế hoạch này của họ:
- Ngay từ đầu tháng 1 Bắc kinh đã ra lệnh cho tầu bè quốc tế muốn đánh cá và thăm dò tài nguyên trong khu vực „đường lưỡi bò“ ở biển Đông phải xin phép và chịu sự kiểm soát của hải quân Trung quốc. Cùng lúc họ còn bắn tin cho thế giới biết, Phó Chủ nhiệm Uỷ ban Quốc gia về biên giới-lãnh thổ Bộ Ngoại giao Việṭ Nam sang Bắc kinh̃ tiến hành “vòng tham vấn thứ nhất về cùng khai thác trên biển giữa hai nước Trung-Việt”. Qua đó họ muốn để dư luận quốc tế coi như chuyện đã xong trong hai việc:1. Khu vực „đường lưỡi bò“ do Bắc kinh từ định ra và chiếm tới 3 triệu km2 ở biển Đông là thuộc chủ quyền của Trung quốc. 2. Nhà cầm quyền Hà nội đã thỏa thuận các quyết định này của Bắc kinh, nên mới cử phái đoàn sang Bắc kinh thảo luận lần thứ nhất về việc“cùng khai thác trên biển“.
- Giữa tháng 1.2014 trong cuộc điện đàm qua đường giây nóng Tập Cận Bình đã thành công trong việc bắt Nguyễn Phú Trọng phải thực hiện tiêu chí mà cấp cao hai bên đã thỏa thuận từ đầu thập niên 90 là „khép lại quá khứ, hướng tới tương lai“. Vì thế đã không để thanh niên và trí thức VN được quyền tổ chức các buổi lễ kỉ niệm 40 năm Bắc kinh xâm chiếm Hoàng sa của VN (19.1.1974-19.1.2014) và 35 năm chiến tranh biến giới phía Bắc (17.2.1979-17.2.2014).
- Cũng theo chiều hướng đó, cuối năm 2013 Bắc kinh cũng đã thành công trong việc bắt nhóm cầm đầu CSVN cấm báo chí được phổ biến các nhận định hay tuyên bố bất lợi cho Bắc kinh, dù đó là của người cầm đầu chính phủ. Ngày 30.12.13 một số báo lề đảng đã nhắc lại tuyên bố nẩy lửa của Nguyễn Tấn Dũng tại cuộc gặp với Hội nghiên cứu Lịch sử VN là:
„Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng cho biết, hiện Bộ Ngoại giao đang lên kế hoạch kỷ niệm 40 năm sự kiện (1974) Trung quốc đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam và 35 năm sự kiện tháng 2 năm 1979 – chiến tranh bảo vệ biên giới phía Bắc.“
Nhưng chỉ ngày hôm sau các bài này đã bị bóc đi, Nguyễn Tấn Dũng nín thinh!
-Trước đó hai tuần tại Hội nghị ngành Ngoại giao lần 28 Nguyễn Phú Trọng đã công khai cho biết, các quyết định về đường lối đối ngoại, quốc phòng, an ninh, chủ quyền và độc lập.. „đều phải tập trung vào một đầu mối dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Bộ Chính trị và Ban Bí thư”. Nói khác, quyết định cuối cùng là TBT Nguyễn Phú Trọng:
„Kiên định nguyên tắc Đảng lãnh đạo tuyệt đối và thống nhất quản lý hoạt động đối ngoại. Thống nhất quản lý đối ngoại cả về chính trị, kinh tế, văn hóa, quốc phòng, an ninh… là một yêu cầu vừa lâu dài, cơ bản, vừa có tính thời sự cấp bách. Theo tinh thần đó, mọi quyết định và hoạt động đối ngoại, nhất là những vấn đề liên quan đến sự ổn định và phát triển của đất nước, đến độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh và danh dự quốc gia, đều phải tập trung vào một đầu mối dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Bộ Chính trị và Ban Bí thư”
-Từ tháng 2 cuộc khủng hoảng ở Ukraine trở nên cực kì trầm trọng với việc TT Putin bất chấp Hiệp ước An ninh và Hợp tác Âu châu cũng như Công pháp quốc tế đã sát nhập bán đảo Krim của Ukraine vào Nga. Mĩ và EU phải tập trung toàn bộ để giải quyết cuộc khủng hoảng này ở Âu châu. Bắc kinh đã thấy đây là thời điểm thuận lợi nên đã âm thầm thực hiện kế hoạch di chuyển giàn khoan HD 981 xuống biển Đông và hoàn thành việc này chỉ ít ngày sau chuyến thăm 4 nước Á châu của TT Mĩ Obama vào cuối tháng 4 là Nhật, Nam Hàn, Mã lai Á và Phi luật tân.
HNTU9 hoàn toàn im lặng trước cuộc xâm lấn ngang ngược của Bắc kinh
Trong vai trò của một đảng độc quyền cai trị và tự khoác cho minh độc tôn lãnh đạo đất nước thì đúng ra người đứng đầu đảng là Nguyễn Phú Trọng phải thông báo ngay và đầy đủ về hành động xâm lấn của Bắc kinh từ ngày 1.5 khi giàn khoan khủng HD 981 tiến vào thềm lục địa VN với sự hộ tống và bảo vệ của gần trăm tầu chiến, phi cơ, tầu hải giám… của Trung quốc. Vì đây là trách nhiệm của người cầm đầu chế độ.
Trong các diễn văn khai mạc và bế mạc ông Trọng đã không thông báo cho nhân dân và cũng không cho thảo luận ở HNTU 9 họp suốt trong một tuần. Mãi hai ngày trước ngày khai mạc HNTU 9 báo chí chế độ toàn trị mới đưa tin Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh đã điện đàm với người đồng nhiệm Trung quốc để kết án hành động xâm lấn này. Ngày 13.5 tờ NewYork Times đã cho biết, Nguyễn Phú Trọng đã tìm cách điện đàm với Tập Cận Bình và đề nghị sẵn sàng sang Bắc kinh để giải quyết cuộc tranh chấp này. Nhưng Tập Cận Bình đã nhất mực từ chối đề nghị của ông Trọng. Tuy nhiên các việc làm này ông Trọng cũng không thông tin trực tiếp cho nhân dân và trong Đảng! Ém nhẹm như vậy có phải sợ mất lòng họ Tập? Hay sợ rằng nhân dân sẽ phê bình sự bất lực và nhu nhược? Trong diễn văn khai mạc ngày 8.5 tuyệt nhiên không thấy Nguyễn Phú Trọng nhắc một lần nào biến cố thời sự cực kì quan trọng và nguy hiểm này. Mãi tới ngày 11.5 ông mới để Nguyễn Tấn Dũng kết án Bắc kinh tại Hội nghị Cấp cao Asean ở thủ đô Miến điện. Nhưng trong Thông cáo chung kết thúc của Hội nghị này đã không kết án Trung quốc mà chỉ khuyên các bên giải quyết êm thắm cuộc tranh chấp. Có phải vì các nước trong Asean không tin cậy lẫn nhau hay chính vì nhiều nước đã thấy rõ thái độ mập mờ với Bắc kinh của ngay người cầm đầu chế độ toàn trị VN trong HNTU 9?
Sau khi hàng ngàn người biểu tinh ngày Chủ nhật 11.5 ở Hà nội, Sài gòn và nhiều thành phố khác kết án sự xâm lấn của Bắc kinh và đòi Bắc kinh phải rút giàn khoan HD 981 ngay ra khỏi thềm lục địa VN, tứ trụ triều đình toàn trị Trọng-Sang-Dũng-Hùng cũng không lên tiếng ủng hộ, trái lại còn cho công an chìm nổi phá rối và mua chuộc, tìm cách biến các cuộc biểu tình này thành ủng hộ đường lối của chế độ! Trong diễn văn dài bế mạc HNTU 14.5 Nguyễn Phú Trọng chỉ nhắc vỏn vẹn hai lần tới biển Đông, lần đẩu sơ qua, mãi lần hai mới nói „tình hình Biển Đông hiện đang diễn biến rất phức tạp, nghiêm trọng“…Nhưng tuyệt nhiên ông ta tránh không đả động tới diễn biến nghiêm trộng như thế nào và nước nào là thủ phạm gây ra tình trạng nghiêm trọng hiện nay trên biển Đông. Nghĩa là Nguyễn Phú Trọng vẫn không dám nêu đích danh nhà cầm quyền Bắc kinh ra kết án! Mãi phần cuối của Thông báo HNTU 9 mới nhắc tới điểm này. Nhưng lời lẽ hé lộ ra thật rất lạ lùng:
„Ban Chấp hành Trung ương theo dõi sát tình hình, nghe báo cáo của các cơ quan chức năng về việc thực hiện các chủ trương, giải pháp của ta phản đối, đấu tranh đòi phía Trung Quốc phải dừng việc đặt giàn khoan thăm dò dầu khí Hải Dương 981 trong vùng biển nước ta…“
Qua đó cho thấy, dù là cơ quan cao nhất của Đảng giữa hai nhiệm kì, nhưng tại HNTU 9 Ban chấp hành trung ương cũng chỉ được „nghe báo cáo“ của các cơ quan cấp dưới, nhưng tuyệt nhiên không có thảo luận gì!
Trước tình hình nghiêm trọng đất nước đang bị xâm lăng, nhưng HNTU 9 đã không thảo luận mà chỉ tập trung vào việc chuẩn bị tổ chức Đại hội 12 làm thế nào để tiếp tục giữ độc quyền cho ĐCS. Còn về chính sách văn hóa thì HNTU 9 vẫn lập lại những khẩu hiệu rỗng tuyếch và răn đe trừng trị „tự diễn biến, tự chuyển hóa“ trong Đảng và ngăn cấm các hoạt động văn hóa và báo chí lề trái, như việc hủy bỏ luận văn “Vị trí kẻ bên lề: Thực hành thơ của nhóm Mở Miệng từ góc nhìn văn hóa“ của chị Đỗ Thị Thoan và bắt giam nhiều Blogger gần đây đang gây bất bình trong nhiều giới ở trong và ngoài nước và dư luận quốc tế kết án nghiêm khắc!:
„Chủ động đấu tranh phòng, chống các biểu hiện suy thoái về tư tưởng, đạo đức, “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trên lĩnh vực văn hóa. Quản lý tốt hơn việc sử dụng dịch vụ Internet và thông tin điện tử trên Internet. Ngăn chặn có hiệu quả tình trạng một bộ phận báo chí, xuất bản, văn hóa, văn nghệ hoạt động không đúng tôn chỉ, mục đích, sa đà vào những thông tin, sản phẩm lệch lạc, thị hiếu tầm thường. Tích cực đấu tranh với những biểu hiện lai căng, những sản phẩm độc hại, những hành vi phi văn hóa, phản văn hoá…“
Tóm lại, mặc dù Bắc kinh đã xâm phạm ngang ngược vùng biển VN trước và trong thời gian HNTU 9 họp; tức là lãnh thổ, chủ quyền và độc lập đang bị đe dọa nghiêm trọng, nhưng tuyệt nhiên Ban chấp hành Trung ương tại HNTU 9 đã không được phép bàn tới vấn đề nóng bỏng và cực kì hệ trọng tới tương lai đất nước. Sự kiện này lại chứng minh một lần nữa rất rõ ràng là, vì quyền-tiền nên cả phe bảo thủ lẫn các nhóm lợi ích từ Bộ chính trị tới Trung ương đảng đã thỏa hiệp ngầm với nhau và không giám đưa việc xâm lấn của Bắc kinh ra thảo luận công khai trong HNTU 9. Vì họ lo sợ rằng, đưa vấn đề này ra thảo luận trong HNTU 9 thì chẳng khác gì cởi áo cho người xem lưng và số phận của chế độ và cả chính họ không biết sẽ đi về đâu! Vì hầu hết 16 ủy viên Bộ chính trị đều đã từng phất cao ngọn cờ „16 chữ vàng“ và „4 tốt“ của Bắc kinh, nếu nay đem chính sách với Bắc kinh ra thảo luận sẽ khơi sâu thêm sự phân hóa và kình chống giữa các phe và làm trò cười trước nhân dân VN và dư luận quốc tế!
Các hành động xâm lấn từng bước của Bắc kinh biển biển Đông thành cái hồ của Trung quốc
Giàn khoan HD 981 đang đứng sừng sững ngang ngược trong hải phận VN chỉ là một chuỗi các chuẩn bị và hành động xâm lấn có tính toán từ lâu của Bắc kinh. Bất chấp thỏa thuận giữa cấp cao của hai bên là không được làm căng thẳng tình hình biển Đông, nhưng trong nhiềm năm qua nhằm thực hiện mục tiêu biến biển Đông thành cái ao của Trung quốc và từ đó thực hiện “Giấc mơ vĩ đại của Trung quốc” mà chính Tập Cận Bình đã tuyên bố toạc ra sau khi làm Tổng bí thư ĐCSTrung quốc và Chủ tịch Trung quốc.
Chỉ liệt kê một số hành động xâm lấn có tính toán của Bắc kinh trong vài năm trở lại đây:
- Như cho các tầu hải quân Trung quốc ba lần xâm phạm hải phận VN và phá các hoạt động kinh tế VN trong năm 2011.
- Lập căn cứ quân sự và cho các đơn vị quân đội Trung quốc đóng thường trú ở Hoàng sa.
-Tháng 7. 2012 cho lập thành phố Tam sa trong đó có quần đảo Hoàng sa, nơi đang có tranh chấp với VN, thành cơ sở hành chánh mới của Trung quốc, nghĩa là mặc nhiên coi Hoàng sa là lãnh thổ của Trung quốc.
- Các chiến hạm Trung quốc thường xuyên tuần tra trên khu vực đang có tranh chấp với VN và nhiều nước Đông nam Á.
- Cho cả ngàn tầu đánh cá Trung quốc ồ ạt xuống biển Đông đánh cá dưới sự hộ tống của hải quân Trung quốc.
- Trong khi đó nhiều tầu đánh cá và ngư dân VN đã bị các tầu hải quân Trung quốc săn đuổi, bắn phá và gây thiệt mạng cũng như thương tích.
-Đầu năm nay còn leo thang thêm với việc ra lệnh tầu ngoại quốc đánh cá và thăm dò trong khu vực „lưỡi bò“ phải xin phép Trung quốc, như nói ở phần đầu.
-Áp lực với giới cầm đầu CSVN cấm các cuộc biểu tình của nhân dân VN chống chính sách bành trướng của Bắc kinh và ngăn cản các lễ kỉ niệm 19.1 và 17.2.; áp lực với nhóm cầm đầu Hà nội cấm báo chí viết bài không có lợi cho Bắc kinh và bắt giam nhiều Blogger từng tố cáo sự xâm lấn của Bắc kinh.
Bắc kinh đã thành công vì nhóm cầm đầu CSVN mang nặng bệnh tâm lí tự ti mặc cảm, thái độ cúi đầu và tư tưởng sai lầm lạc hậu
Câu hỏi trung tâm ở đây là, làm sao Bắc kinh đã có thể tự do hoành hành xâm lấn biển Đông như chỗ không có chủ trong các năm qua? Muốn giải đáp câu hỏi này thì cần biết rõ, những người cầm đầu chế độ toàn trị CSVN đã đối xử như thế nào với giới lãnh đạo Bắc kinh, sáng suốt hay u mê, can đảm hay nhu nhược? Đứng về phía nhân dân hay o bế Bắc kinh? Ở đây chỉ liệt kê một số hoạt động của họ trong vài năm gần đây:
-Năm 2010 khi tình hình biển Đông ngày càng căng thẳng, khi đó với tư cách Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Phú Trọng đã tuyên bố trước UBTVQuốc hội là „Tình hình biển Đông không có gì mới“ và cấm không cho Quốc hội được đưa vấn đề biển Đông ra thảo luận.
- Để vận động cho chuyến thăm ra mắt Bắc kinh vào tháng 10.2011với tư cách tân TBT, mùa hè 2011 Nguyễn Phú Trọng đã phái hai Thứ trưởng Quốc phòng sang uốn lưỡi lấy lòng phương Bắc.Trong khi Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh, Thứ trưởng quốc phòng và phụ trách đối ngoại, đã tuyên bố “Một thực tế hiển nhiên là Trung quốc cam kết không lấy đất, lấy biển của Việt Nam.“ Còn Tướng Ngô Xuân Lịch, Chủ nhiệm Tổng cục chính trị, thì hứa với Bắc kinh „Việt Nam không có ý định quốc tế hóa các vấn đề tranh chấp trên Biển Đông. Vấn đề tranh chấp giữa hai nước thì do hai nước giải quyết.“
- Trong khi tình hình biển Đông tiếp tục căng thẳng, trước chính sách xâm lấn của Bắc kinh khiến Phi luật tân đã phải kiện Trung quốc tại Tòa án quốc tế, nhưng vì sợ Bắc kinh nên Hà nội không dám ủng hộ Phi luật tân, một thành viên trong Asean. Giữa khi ấy Nguyễn Tấn Dũng đã huyênh hoang tại cuộc hội thảo quốc tế „Đối thoại Shangri-La“ vào cuối tháng 5 đầu tháng 6 tại Singapore vẫn còn nuôi „Xây dựng lòng tin chiến lược vì hòa bình, hợp tác, thịnh vượng“ với Bắc kinh. Làm thế có khác nào trao trứng cho ác!
- Giữa tháng 12.2013 khi về HN dự Hội nghị Ngoại giao do Nguyễn Phú Trọng chủ trì, Đại sứ VN tại Trung quốc Nguyễn Văn Thơ cũng theo chiều hướng tùng phục như vậy đã nói với báo chí về chính sách ngoại giao trước sau của Hà nội với Bắc kinh là „Chúng ta không có hai lòng.“ Nghĩa là theo chủ trương trung thần bất sự nhị quân, coi Trung quốc là thiên triều, còn VN là thuộc quốc như thời phong kiến vài thế kỉ trước!
Những lời tuyên bố vừa ngênh ngang vừa ngờ ngệch trên của những người cầm đầu Đảng, Chính phủ hay những người có trách nhiệm về quốc phòng, ngoại giao đã cho thấy thái độ ươn hèn và những quan điểm cực kì sai lầm về các ý đồ và chính sách của Bắc kinh…Nó bắt nguồn từ tư duy cực kì lạc hậu và tâm lí tự ti mặc cảm của giới lãnh đạo toàn trị còn sót lại từ thời phong kiến. Đặc biệt bệnh tâm lí tự ti mặc cảm đối với phương Bắc trở thành căn bệnh nặng của Nguyễn Phú Trọng. Ông tỏ ra rất hãnh diện khi được người cầm trịch ở Bắc kinh chú ý và tự khen với thái độ vui như con nít ngay trước hội nghị quan trọng của Đảng. Ông Trọng coi việc Hồ Cẩm Đào khi ấy là Tổng bí thư kiêm Chủ tịch nước đã cử đặc phái viên sang mừng Nguyễn Phú Trọng được cử làm Tổng bí thư (1.2011) là một niềm hãnh diện lớn:
“Chưa bao giờ ngay sau Đại hội, một số đảng anh em như … Đảng Cộng sản Trung quốc cử đặc phái viên của Tổng bí thư, Chủ tịch nước sang gặp Tổng bí thư ta để trực tiếp chúc mừng thành công của Đại hội”!
Từ tâm lí tự ti mặc cảm với phương Bắc, cho nên sung sướng và hãnh diện được kết „bạn“ với Bắc kinh là logik rất biện chứng của ông Trọng. Điều này Nguyễn Phú Trọng đã nói rõ trước mặt cả hơn ngàn cán bộ trung và cao cấp tại Hội nghị Cán bộ toàn quốc ngày 27.2.2012. Khi nhắc tới các nhà lãnh đạo Bắc kinh, ông Trọng luôn luôn tỏ vẻ kính trọng, như „BẠN thường nhấn mạnh, không để bị „Tây hóa, tha hóa, thoái hóa!“ Một điều bạn bảo, hai điều bạn khuyên, sự cung kính như thế có khác nào như thái độ coi đó như những lời bố dậy bảo!
Cho nên không lạ, khi người đứng đầu giữ thái độ khúm núm và tự ti như vậy, coi Bắc kinh như thiên triều ngày xưa, thì chẳng trách những người dưới quyền cũng quị lụy như vậy, đồng thời còn ra tay ru ngủ cả toàn Trung ương đảng và quân đội! Chính vì vậy nên Bắc kinh đã được đằng chân lân đằng đầu. Việc Bắc kinh cho cả gần trăm tầu chiến, phi cơ quân sự, hải giám hộ tống giàn khoan khủng HD 981 vào sâu trong thềm lục địa VN hiện nay rõ ràng là hậu quả tất yếu của thái độ nhu nhược và cực kì sai lầm của Nguyễn Phú Trọng và những người cầm đầu chế độ toàn trị.
Đối với Bắc kinh thì quị lụy cúi đầu, cùng „xây dựng lòng tin chiến lược“, nhưng với nhân dân, thanh niên và trí thức VN thì Nguyễn Phú Trọng lại khinh thường, ngạo mạn. Khi nhiều trí thức, nhân sĩ từ trong Đảng tới ngoài xã hội tố cáo việc sửa đổi Hiến pháp giả vờ, Nguyễn Phú Trọng đã rất hách dịch kết án họ là „suy thoái đạo đức“. Cũng vẫn giữ cách phách lối đó, trong HNTU 9 Nguyễn Phú Trọng đã đe dọa những người dân chủ và cả những đảng viên tiến bộ:
„Chủ động đấu tranh phòng, chống các biểu hiện suy thoái về tư tưởng, đạo đức, “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trên lĩnh vực văn hóa. Quản lý tốt hơn việc sử dụng dịch vụ Internet và thông tin điện tử trên Internet..“
Còn người cầm đầu chính phủ Nguyễn Tấn Dũng không bỏ lỡ một cơ hội nào để tung hô dân chủ, bảo vệ chủ quyền; nhưng chỉ là trò đánh trống bỏ dùi, làm người bán dạo ở đường phố, ưu tiên đầu tiên vẫn là quyền tiền và gia đình, trước sau vẫn khinh thường trí thức và đàn áp những người dân chủ!
***
Nói tóm lại, việc Bắc kinh ngang ngược cho cả gần 100 tầu chiến, phi cơ, tầu hải giảm và kiểm ngư hộ tống giàn khoan đầu khủng HD 981 vào sâu trong thềm lục địa của VN từ 1.5 và việc Tập Cận Bình quyết liệt từ chối lời yêu cầu của Nguyễn Phú Trọng sang Bắc kinh thảo luận đã cho thấy sự phá sản toàn bộ trong chinhq1 sách với Trung quốc của nhóm cầm đầu chế độ toàn trị CSVN. Mặc dù VN ngày nay xét cả về diện tích, dân số và tài nguyên là nước trung bình cả trong khu vực lẫn thế giới. Cả thế giới đang bước vào thời đại toàn cầu hóa cả trong kinh tế lẫn chính trị và kỉ nguyên thông tin điện tử đang có sức mạnh đánh tan đêm tối độc tài và tiến vào quĩ đạo dân chủ. Nhưng nhóm cầm đầu chế độ toàn trị ở VN tới nay vẫn chưa nhận ra được và cũng không dám nhìn nhận những sai lầm và cực kì nguy hiểm cho đất nước trong chính sách với Bắc kinh của họ. Vì thế đã dẫn tới sự phá sản toàn bộ của chính sách này. Biến cố HD 981 là một điểm cao mới chứng minh sự phá sản này.
Sự phá sản chính sách đối với Trung quốc nằm chính ngay trong đầu của những lãnh đạo CSVN. Do tư duy cực kì bảo thủ coi ý thức hệ CS.. cao hơn lợi ích của dân tộc, nên họ nhận định hoàn toàn sai lầm về ý đồ của Bắc kinh. Tâm lí tự ti mặc cảm đã khiến họ sẵn sàng thần phục và quỵ lụy Bắc kinh như thời phong kiến. Trong khi ấy đối với nhân dân thì họ chỉ tính lừa đảo, khinh thường trí thức và thanh niên, đàn áp những người dân chủ và đang tăng cường trấn áp cả những đảng viên tiến vộ, biết quí lòng tự trọng!
Họ đòi quyền cao tuyệt đối cho Đảng trong mọi lãnh vực, trong đó có chính sách đối ngoại. Nay chính sách với Bắc kinh đã hoàn toàn thất bại và phá sản, nhưng họ không nhận trách nhiệm. Không những thế họ lại còn không cho Trung ương đảng thảo luận về những nguy cơ của đất nước, không cho nhân dân –đi đầu là trí thức, thanh niên- được quyền biểu tình ôn hòa chống lại sự xâm lấn của Bắc kinh. Như thế vài người đứng đầu trong Bộ chính trị đã trở thành siêu độc tài và đang củng cố quyền lực với việc thực hiện câu nói của Mao Trạch Đông: Trí thức chỉ như cục phân, nhân dân như cỏ dại!
Âu Dương Thệ
Không có nhận xét nào: