NGUYỄN HỌC TẬP - (Viết theo huấn từ của Đức Hồng Y
Angelo Sodano, Thư Ký Văn Phòng Quốc Vụ Khanh Toà Thánh, nhân buổi tiếp kiến Văn Phòng Toà Thánh với các nhóm đại diện
Chính Quyền, Quốc Hội và các chuyên gia
luật pháp Âu Châu từ 22 - 24 tháng 10 năm 1998, do Thánh Bộ chuyên về gia đình
tổ chức, trích từ nhật báo L'Osservatore
Romano, 23.10.1998).
1 - Giới thiệu chủ đề.
Chủ đề chúng ta đang muốn đề cập đến,
đó là "Người làm chính trị phục vụ công ích".
Dĩ nhiên Đức Hồng Y không phải là một
chuyên gia về chính trị hay luật pháp, nên huấn từ của ngài không đi sâu vào
các lãnh vực cá biệt của tư tưởng "công ích" (kinh tế, an
ninh quốc gia, y tế, tương giao quốc tế...), mà chỉ đề cập đến một vài
phương diện tổng quát,dựa trên lãnh vực luân lý.
2 - Người làm chính trị có phận vụ
phục vụ công ích.
Quan niệm chính trị phục vụ công ích, lợi ích công cộng, là tư tưởng minh nhiên hàm chứa
ngay trong danh xưng của nó. Bởi lẽ đó là lý do chính danh hoá cho quyền lực cá
biệt của động tác quyền lực chính trị.
Đây là quan niệm cao cả và kỳ vọng trên
lý thuyết, cũng như trong nhãn quang của dân chúng. Chính trị có liên quan đến
quyền lực, và phận vụ của chính trị vì đó là phục vụ, bằng cách dùng dụng cụ cá
biệt đó.
Theo chiều hướng của Thánh Kinh, tác động
phục vụ đó phải nhằm thực hiện để phục vụ người yếu thế trong xã hội:
- "Hỡi Anh Em, những người đặc trách công việc chung, anh em biết
rõ rằng động tác chính trị là một nghệ thuật cao qúy và khó khăn (cfr. Gaudium
et Spes, 75), đòi buộc phải có hành động trong sáng..." ,(in Insegnamenti di Giovanni
Paolo II, vol. XIV, 2, p. 680-683).
Không ai không biết mức độ anh hùng của
việc từ bỏ lợi ích riêng tư, bè phái, phe nhóm mà nguyên tắc đó lắm khi đã tiên liệu
trong cuộc sống thực tế của người làm chính trị, bởi lẽ rất thường khi gặp phải
những động lực của tội ác thúc đẩy, người làm chính trị tìm kiếm những quyền lực
có khả năng dễ dàng đảo lộn các bậc thang giá trị.
Lắm khi chính trị phải phục vụ, nhưng kết
quả đâu không thấy và đó chính là điều gia tăng thêm đặc tính thiết yếu của
chính trị.
Giáo Hội không ngần ngại định nghĩa động
tác chính trị như là một thể thức bác ái trổi thượng, là ơn gọi hoàn hảo
trong ý nghĩa của danh từ (ĐTC Piô XI, Discorso ai dirigenti della
Federazione Universitaria Cattolica, 18.12.1927, in Discorso di Pio XI, ed.
it., a cura di Domenico Bertetto S.D.B., vol I : 1922-1928, p. 742-746 (744-745).
3 - Mất tin tưởng đối với quan niệm
"công ích".
Nếu có người tranh luận về tư tưởng
chính trị có phục vụ công ích hay không, thì chắc chắn cũng có người đặt dấu hỏi về quan niệm thứ hai trong chủ đề của
chúng ta, bởi lẽ trong lãnh vực chính trị -luật pháp hiện đại, quan niệm "công
ích" là một quan niệm gây nên nhiều tranh luận, đến nỗi có người cho rằng
đó là quan niệm đặc thù của "nhóm công giáo".
Hậu quả tiêu cực của tâm thức vừa kể
không chỉ giới hạn trong lãnh vực giữa nhũng nhà chuyên môn với nhau, mà còn thẩm
thấu trải rộng ra trong cả tổ chức xã hội.
Một tài liệu của Hội Đồng Giám Mục Anh Quốc đã nói lên tình trạng đó như sau:
- "Dân chúng không còn tin tưởng rằng nguyên tắc vừa kể đáng còn
được mình tin cậy nữa. Dân chúng cảm nhận nguyên tắc trên đã được đưa ra tranh
luận trên lý thuyết và không còn ai lưu ý đến trong thực hành. Mất đi lòng tin
tưởng đối với quan niệm công ích nầy là môt trong những yếu tố chính yếu giải
thích tâm tư bi quan về tổ chức quốc gia. Nói lên ý nghĩa của tinh thần trách
nhiệm đã bị sa sút đi và tinh thần liên
đới hỗ tương đã ngã về bóng xế chiều - điều đó có nghĩa là chất xi măng liên kết
cá nhân và xã hội bị đã mất đi", (HDGM Anh Quốc và Galles, Il Bene
Comune e la Dottrina
Sociale della Chiesa, 1996, n. 116).
Không thể có được một lý tưởng xã hội
có khả năng thúc đẩy động tác liên đới, nếu công lý chỉ đưọc coi là những gì phụ
thuộc thứ yếu.
Không ai có thể đặt hy vọng vào một toà
nhà đuợc xây trên cát (Gilles Lipovetsky, Le crépuscle du devoir. L'étique
indolore des nouveaux temps démocratiques, Gallimard, Paris 1992).
3.1. Quan niệm Trung
C ổ về công ích và thay đổi ý nghĩa chính trị trong thời hiện
đại.
Có lẽ chúng ta nên nhớ lại một vài yếu
tố lịch sử tiến trình biến chuyển quan niệm "công ích". quan niệm tò koinòn agathòn của
Hy Lạp được dịch ra La
Tinh thành bonum comune, được khai sinh từ tư
tưởng chính trị của Platon và Aristote, và có được thêm tằm quan trọng đáng kể ở
thời Trung C ổ.
Các tư tưởng gia cỗ dùng từ ngữ vừa kể
để định nghĩa căn nguyên và mục đích hoạt động chính trị.
Kế đến, trong thời Trung C ổ, do ảnh hưởng huấn dụ của
Thánh Phaolô về "Thân Thể Mầu Nhiệm Chúa Ki Tô", từ ngữ có
thêm được một tầm quan trọng đặc biệt dưới ánh sáng một tổ chức xã hội có
tương quan trật tự, nhấn mạnh đến tư tưởng việc các thành phần phải tôn
trọng lợi ích của tất cả, tuy nhiên vẫn nhận biết rằng nơi con người có một
tầm mức vượt hẵn cao cả hơn những gì thuộc lãnh vực chính trị (I-II, 21,4, ad
3):
- "homo non ordinatur ad comunitatem politicam secundum se totum
et secundum omnia sua" (con
người không phải được dựng nên cho cộng đồng chính trị , mà cho những gì tất cả
hoàn hảo thuộc về mình và cho tất cả những gì là của mình).
Quan niệm thời Trung C ổ đó gợi ý cho hoạt động
chính trị được đặt trên ba nguyên tắc trọng đại:
- Thiên Chúa là Đấng Tạo Hoá và là Đấng thiết định tất cả tạo vật:
trong mỗi tạo vật có một lề luật vĩnh viễn được khắc ghi vào bản thể
và bởi đó trở thành luật tự nhiên, điều hành mọi tạo vật và một
cách đặc biệt là định hướng con người trong cuộc sống và động tác của mình.
- Bởi đó trước moi lề luật thực định (lex positiva), đều đã có một luật
lệ vĩnh viễn và tự nhiên, mà từ đó pháp luật thực đinh của con người phải
rút ra nguồn cảm hứng và luật định để áp dụng thực tế . .
- Đối với người tín hữu Chúa Ki Tô, tự do không phải là những gì tách
ra khỏi lè luật: bởi lẽ mục đích của tự do hàm chứa trong trong việc ý thức
rằng lề luật định hướng mình hướng về Thiên Chúa (nếu là lề luật chính
đáng theo ý nghĩa vừa kể) và làm cho mình thể hiện ra trong động tác chính
đáng thực tế.
Kế đến các tác giả như Macchiavelli,
Hobbes và Locke thay đổi cách giải thích mục đích của hoạt động chính trị:
- họ đặt nặng trọng tâm vào các
phương thức tổ chức cơ chế quyền lực,
- và quan niệm về một xã hội hiệp nhứt theo định luật tự nhiên, được
thay thế bằng quan niệm hoà hợp thoả thuận giữa các quyền của các chủ thể cá
nhân trong xã hội (kể cả những nhượng bộ bất chính)
Người ta vẫn tiếp tục ban thảo với nhau
về " công ích " (hoà bình, thịnh vượng) nhưng với
những nội dung khác xa đối với những gì thuộc về quan niệm khởi thủy.
Chúng ta đang ở vào thời đại khế
ước, xa xôi đối với quan niệm công ích như là gia sản thành thực chính
đáng tự bản thể của nó.
Nhãn quan hiện đại theo duy ích chủ
nghĩa (utilitarisme) là kết quả của một nhân sinh quan mới, theo đó thì con
người tự bản tính của mình là một chủ thể chống xã hội.
Bởi đó xã hội được thiết lập nên, cơ chế
quốc gia được lập ra, là để " kiểm soát " các đam mê ích kỷ,
các ganh đua đố kỵ và tham vọng thuộc bản tính tự nhiên của con người.
Từ đó chúng ta có câu nói bất hủ của Hobbes,
"homo homini lupus" (con người là chó sói đối với người khác)
và tư tưởng về hoạt động tôi chảy của một xã hội mà chúng ta không thể chấp nhận
được.
Chinh trên những nền tảng mới vừa được
đề cập, mà phần lớn tâm thức của các chính quyền được dựa theo để hiểu công
ích như là một tài sản lợi ích, thịnh vượng, lợi ích rộng lớn hơn cho số
dân chúng càng đông hơn càng tốt.
3.2. Quan niệm hiện đại của
Giáo Hội đối với công ích.
Dựa trên các quan niệm dồi dào của thời
Trung C ổ về công
ích, được hội nhập thêm vào các yếu tố mới hiện đại, nhứt là vào các quan niệm
về các quyền của con người, Giáo Hội khởi đầu lại một lần nữa suy tư về quan niệm
vừa kể với những đóng góp tổng hợp được nói lên trong Thông Điệp Mater et
Magistra (n. 70), Pacem in terris (n. 57), cũng như tiếng nói của Công Đồng
Vatican II (Gaudium et spes, nn. 26-74 và của Sách Giáo Lý Giáo Hội Công
Giáo (n. 1906).
Xin được trích dẫn định nghĩa về công
ích của Công Đồng Vatican II:
- "Công ích là tổng hợp tất cả các điều kiện xã hội cho phép và
tạo điều kiện thích hợp nơi mỗi thành viên cá nhân, nơi các gia đình và các hiệp
hội, tổ chức xã hội để đạt được một cách nhanh chóng và hoàn hảo những gì trọn
hảo của mình".
4 - Công ích và luật tự nhiên. Phục
vụ công ích khởi đầu từ luật tự nhiên.
Thời Trung C ổ quan niệm chính trị thoát xuất từ một
nhãn quang về con người, trong đó được giả dịnh trước một trật tự luân
lý khách quan, một luật tự nhiên không tùy thuộc vào bất cứ một thoả ước xã hội
hay một đạo luật thực định (lois positive) nào.
Nhãn quang đó đã mất đi trong thời điểm
hiện tại của chúng ta, với khuynh hướng càng ngày càng nhấn mạnh đến quan niệm
cá nhân về con người và luân lý chỉ là những gì thuộc quan niệm chủ quan.
Hiện nay, chính trị đang đứng trước
thái độ phải chọn lựa nầy: định hướng hoạt động chính trị theo nhãn quang luật
tự nhiên (jusnaturalisme), tức là nhận biết các giá trị khách quan của con
người) hay theo nhãn quang phương thế dụng cụ, chỉ nhằm làm sao cho tổ chức hệ
thống cơ chế được hoạt động điều hoà, tốt đẹp.
Liên quan đến tư tưởng vừa kể, chúng ta
có thể nhớ lại lời của ĐTC Phaolô VI:
- "Dĩ nhiên con người có thể tổ chức thế giới không cần có Thiên
Chúa, Nhưng không có Thiên Chúa con người sau cùng chỉ có thể tổ chức chống lại
con người" (cfr. Populorum
progressio).
ĐTC Gioan Phaolô II, trong thông Điệp Evangelium
vitae, một lần nữa đã đặt lại ngón tay trên vết thương vừa kể:
- "Nếu không có một chân lý cuối
cùng nào hướng dẫn và định hướng hoạt động chính trị, lúc đó các tư tưởng và những
xác tín có thể dễ dàng trở thành dụng cụ cho mục đích quyền lực. Một nền dân chủ
không có các giá trị, có thể bị hoán chuyển dễ dàng thành một chế độ toàn trị
minh nhiên hay lường gạt ẩn nấp, như lịch sử đã chứng minh" (ĐTC Gioan Phaolô II, Evangelium
vitae, n. 101).
Thế giới luật pháp và chính trị ngày
nay đang có khuynh hướng không chấp nhận nhãn quang luật tự nhiên trong việc
thiết định luật pháp, là những điều khoản xác định những gì mà hoạt động chính
trị có ý thực hiện cho "công ích".
4.1. Khiếp sợ đối với ý thức hệ.
Có những người muốn giữ tách biệt luật
tự nhiên và luật lệ dân sự, vì họ cho rằng ảnh hưởng lẫn nhau giữa lãnh vực nầy
đến lãnh vực kia có thể làm nguy hại cho thể chế dân chủ. Bởi lẽ theo những người
vừa kể, lề luật không được viết thành văn bản, như luật tự nhiên, là " lề
luật không chính xác " và có thể bị ảnh hưởng của những lối giải thích
quá đáng hay quá khích theo ý thức hệ mình muốn làm nổi bậc hay bênh vực. Bởi
đó có thể có những người giải thích một cách áp đặt độc tài theo họ muốn, chống
lại ý muốn của đa số là ý muốn của đặc tính dân chủ.
Vậy ai là người quyết định "công
ích" là gì ?
Làm sao có thể kiểm nhận được đường lối
giải thích nào là chính đáng, đáng tin cậy?
4.2. Trả lời cho mối lo âu. Luật tự nhiên là vì sao bắc đẩu định
hướng đời sống chính trị.
Chúng ta thành tâm xác tín rằng, ngược
lại những tư tưởng vừa được đề cập đến, luật tự nhiên là vì sao bắc đẩu định
hướng chúng ta hướng về nhưng gì chính đáng nhứt cho thể chế dân chủ.
Điều đáng sợ thường có thể xảy ra giữa
việc lầm lẫn nhưng gì luật tự nhiên đòi buộc phải có và việc định chân giá trị
các hậu quả tiêu cực của việc không chấp nhận luật tự nhiên.
4.2.1. Hiểu biết một cách chính đáng: luật tự nhiên không phải là
một "toa thuốc".
Không phải ít khi chúng ta nhận thức được
có sự lầm lẫn về quan niệm luật tự nhiên, trong các cuộc tranh luận chính trị
và luật pháp, cũng như trong các phân khoa và học viện về pháp luật.
Nhiều tư tưởng xác quyết về tính cách
"không chính xác", cũng như khó mà xác định rõ ràng đâu là nội
dung của nó, do nhiều lập trường khác nhau có liên qua đến chủ đề.
Từ đó đưa đến kết thúc hệ trọng: vì có
quá nhiều chủ thuyết khác nhau về nội dung của luât tự nhiên, nên tốt hơn là loại
bỏ quan niệm luật tự nhiên đi, trong việc thiết định thể chế và cấu trúc xã hội.
Kết luận như vừa kể là một kết luận ý
thức hệ, cho rằng loại bỏ đi luật tự nhiên, chúng ta mới có được mội dung chắc
chắn cho việc tổ chức xã hội.
Cho rằng quan niệm như vậy, quan niệm
luật tự nhiên, cần phải được loại bỏ đi
, bởi vì không đem đến cho chúng ta những gì chắc chắn trong các trường hợp thực
tế, phải chăng đó cũng là thái độ xác quyết đúng đắn cần loại bỏ đi loại dược
phẩm, không có khả năng giải quyết một cách quyết định trong mọi trường hợp bệnh
hoạn.
Luật tự nhiên không phải là "toa
thuốc" để giải quyết hết mọi loại vấn đề luân lý, hành chánh, luật
pháp và phương thức tổ chức cơ chế xã hội.
a) Ở cấp bậc thứ nhứt, luật tự nhiên cung ứng cho chúng ta những
nguyên tắc tổng quát; xác nhận quyền được sống, có nghĩa là nhận biết bất
cứ ai là con người lành mạnh đều có khả năng
- nhận biết rằng đời sống, sự hiểu biết, xã hội tính, quyền sinh con cái
và nhưng thực thể căn bản khác là những nội dung tốt đẹp
- để phát triển con ngưòi có một cuộc sống cho ra người và một xã hội xứng
đáng với con người.
b) Ở cấp bậc thứ hai, rất tiếc, những hậu quả thiết thực của các
nguyên tắc căn bản nầy, có thể bị các tư tưỏng tiền kiến làm lu mờ và sai trái
đi,sự thiếu hiểu biết, đam mê, thái độ ỷ lại dựa vào quyền lực, lòng ước muốn tự
lập tuyệt đối...
Để vưọt thắng được những khó khăn đó, cần
phải có những cuộc thảo luận, thuyết phục, giải toả, học hỏi nghiêng cứu, suy
tư và trong một vài trường hợp phức tạp, chỉ có những người khôn ngoan và thận
trọng mới có khả năng giải toả được.
Luật tự nhiên không loại bỏ đi sức
cố gắng và tiến trình con người đi tìm chân lý trong các thực tại thiết thực. Tuy nhiên luật tự nhiên chỉ đường cho chúng ta đi đến được và bảo đảm
cho chúng ta điều chắc chắn rằng con người có khả năng hiểu biết được luật tự
nhiên là gì.
Trong lịch sử, luật tự nhiên đã có nhiều
tác đông.
Lich sử đã giúp lấp đầy những lỗ hỏng
thiếu sót của lề luật thực định (lois positives) và đã giúp cho để giải
thích được một cách công minh, đã tạo thuận lợi cho đối thoại giữa các dân tộc
và văn hoá,
- như là một loại văn phạm cần thiết để có thể hiểu nhau được,
- đã giữ phận vụ định chuẩn đối với các quan niệm trong lịch sử và định
hướng về những viễn ảnh cho tương lai,
- chuẩn định chính đáng hay bất chính những phán quyết lạm dụng cho rằng
đó là những gì đúng theo cách hành xử "tự nhiên" của con người,
dẫn đưa dòng lịch sử của các dân tộc đến những chân trời công chính hơn.
Nói tóm lại, trong nhãn quang vừa kể,
luật tự nhiên thể hiện trước cho hình ảnh nền luật phải có trong tương lai (José
Luis, L. Aranguren, Ética y politica, Biblioteca Nueva, Madrid 1996, p.
39).
4.2.2. Không có luật tự
nhiên, ai muốn làm gì cũng được.
Mối lo âu của nhiều tư tưởng gia chững
chạc không phải là không có lý chứng. Đời sống xã hội với các cấu trúc cơ chế
luật pháp của mình đòi buộc phải có nền tảng tối hậu.
Nếu không có lề luật nào khác hơn là luật
lệ dân sự, chúng ta phải chấp nhận rằng bất cứ giá trị nào, ngay cả đối với những
giá trị mà con người đã phải chiến đấu và cho rằng là những giá trị căn bản
trong cuộc lữ hành lâu dài để tiến đến tự do, cũng có thể bị xóa đi, đơn sơ chỉ
vì được đa số phiếu đồng thuận.
Những ai phê bình, không có thiện cảm với
luật tự nhiên, cần nên mở mắt ra trước viễn ảnh vừa kể có thể xảy ra và khi họ
phát động đề thảo ra luật pháp - đối ngược lại công ích đối với những nhu cầu
căn bản của nó - họ nên ý thức được hậu quả các động tác của họ, bởi lẽ những động
tác đó có thể đưa xã hội đến một chiều hướng nguy hiểm. Và cũng vì khi muốn giới
hạn các hậu quả của một đạo luật, chúng ta cần nên nhớ đến câu nói của
Chesterton:
- "Luật pháp tùy thuộc vào bản tính của con người chớ không phải
tùy thuộc vào ước muốn của nhà lập luật, và sẽ đem lại cho chúng ta hậu quả mà
chúng ta đã gieo vãi trong đó"
(Gilbert Keith Chesterton, Eugenics an Other Evils, Lendine 1922, p. 16).
4.2.3. Không có luật tự nhiên, người làm chính trị có thể giữ được
tính cách độc lập của mình không?
Không có một nền tảng vững chắc bảo chứng,
làm thế nào nhà lập pháp có thể chống chọi lại áp lực của các nhóm bè phái vì lợi
thú riêng tư của nhóm?
Trách nhiệm của nhà lập pháp thật lớn
lao, và khó khăn trong công việc của mình, phải chạm trán cũng không phải nhỏ.
Luật pháp được soạn thảo, chuẩn y và
ban hành đều phải đi theo một tiến trình, trong đó các nhóm lợi thú riêng tư có
khả năng đặt điều kiện, làm áp lực trên cả tiến trình, từ dự thảo đến cả nội
dung của các đạo luật.
Điều vừa kể có thể thúc đẩy người làm
chính trị làm thế nào đuợc nổi danh, được lòng dân chúng cho địa vị của mình,
không phải luôn luôn cùng đồng thuận với ý nghĩa trách nhiệm trọng đại của mình
trong chính trị.
Ở đây chúng ta chỉ có thể xin Thiên
Chúa ban cho nhà lập luật sức mạnh nội tâm để có thể chịu đựng được những áp lực
đó, không qụy ngã theo ciều hướng lợi thú thuận tiện.
Trong Thông Điệp Centesimus annus (1991),
ĐTC Gioan Phaolô II phân tích vấn đề thiết thực vừa kể và mời gọi hãy
suy nghĩ chính chắn về công ích, như là địa bàn kim chỉ nam, không gì có thể
thay thế được:
- "Ngay cả ở những quốc gia trong đó các hình thức dân chủ có hiệu
lực, không phải luôn luôn các quyền đó đều được tôn trọng. Không phải chỉ nói đến
gương mù gương xấu của việc phá thai, mà cả những phương diện liên quan đến một
cơn khủng hoảng các hệ thống dân chủ, mà nhiều khi các hệ thống đó mất đi định
hướng, khả năng quyết định tùy theo công ích. Những đòi hỏi từ xã hội được phát
xuất lên nhiều khi không được duyệt xét theo tiêu chuẩn công lý và luân lý, mà
tùy theo động lực bầu cử hay tài chánh của các nhóm chủ trương nêu lên. Những
loại sai đường tập quán chính trị đó vói thời gian sẽ tạo nên bất tín nhiệm và
dững dưng, với hậu quả làm cho giảm thiểu động tác tham dự chính trị và tinh thần
sống chung trong cộng đồng dân chúng, vì họ cảm thấy bị thiệt hại và mất hy vọng.
Điều đó đưa đến kết quả không còn khả năng đặt các lợi thú cá biệt vào một nhãn
quang hợp lý của công ích. Thật vậy, công ích không phải chỉ đơn sơ là tổng
hợp các lợi thú riêng tư, mà mạc nhiên bao gồm việc đánh giá các lợi thú đó và
việc tổng hợp đúc kết được thực hiện dựa trên nền tảng quân bình các giá trị
và, nói cho cùng, trên nền tảng một sự hiểu biết chính đáng về phẩm giá và các
quyền của con người"
(CA, n. 47).
4.2.4. Những hậu quả của việc
khước từ luật tự nhiên: một vài ví dụ.
Không thiếu gì những biến cố đáng lo ngại
từ việc đánh mất đi ý nghĩa của lợi ích thiên nhiên khách quan.
a) Cộng Sản
chủ nghĩa.
Cộng
Sản chủ nghĩa (hay Mát Xít chủ nghĩa) chối bỏ đi quyền tự nhiên của con người,
cho rằng đó là quan niệm thuộc về ý thức hệ của bọn tư sản và bởi đó cần phải
tiêu diệt tận gốc rễ.
Marx
cho rằng các quyền (mà bọn tư sản cho rằng mình có và đòi buôc phải tôn trọng
chỉ là những gì tùy thuộc vào hệ thống kinh tế) và
- "nhà lập pháp không thể tự mình
thiết định tùy hứng điều gì không bị mức độ phát triển kinh tế ảnh hưởng đến;
không thể "chế biến ra" các quyền và tự do được phát sinh chặt chẽ từ
các mối liên hệ xã hội, bằng cách hội nhập cá nhân vào một hệ thống xã hộ -
kinh tế xác định" (V. Kudyavtsev, Human Rights Concepts, in Social
Science (URSS Academy of Science) 18 (1987/1), p. 84.
b) Tự do chủ nghĩa.
Sau
khi ý thức hệ Cộng Sản Chủ Nghĩa thực định sụp đổ, lối giải thích kinh tế như vừa
kể có lẽ không còn có ai đầu óc tối tăm nghe theo nữa.
Nhưng
định chuẩn nền tảng chối bỏ sự hiện hữu các giá trị tuyệt đối có trước bất cứ lối
giải thích xã hội nào,vẫn còn xuất hiện trong một vài văn bản khác.
Một
ví dụ đã tạo ra không ít lo ngại đó là phán quyết của một vài vị thẩm phán Tối
Cao Pháp Vi ện
Hoa K ỳ, trong
một phiên toà về các chủ đề như hôn nhân, sinh sản, ngừa thai, được tuyên bố
như sau:
- "Những vấn đề đó hàm chứa việc
lựa chọn nội tại riêng tư và cá nhân, mà một con người có thể lựa chọn trong đời sống mình, đó là những lựa chọn
nồng cốt cho phẩm giá và tự lập cá nhân, và nồng cốt cho quyền tự do của chúng
ta . Xác định quan niệm của chính mình về đời sống, về ý nghĩa, về vũ trụ và về
chính đời sống con người là những gì liên hệ đến trung tâm điểm của tự do"
(Planned Parenthood vs. Casey, 1992).
Tối Cao Pháp Vi ện có thể bảo vệ
bằng luật pháp giá trị của tự do cá nhân chống lại bất cứ áp đặt nào không
chính đáng. Ước vọng đó là điều chính đáng, nhưng thái độ bảo chứng cá nhân chủ
nghĩa tuyệt đối của Tối Cao
Pháp Vi ện không được đưa ra dựa trên một định chuẩn nào cần
thiết để thiết định các giá trị theo một hệ thống bậc thang giá trị, bảo chứng
đó có thể làm cho xã hội trở thành hoàn
toàn phân hoá.
c) Pha trộn biến chế các yếu tố di truyền
(genetica).
Từ
thái độ quyền tự do của người mẹ chấm dứt tiến trình mang thai, hiện nay chúng
ta đi đến tự do của các nhà nghiêng cứu biến chế, pha trộn bào thai con người,
như họ muốn, vì "những mục đích quan trọng, lợi ích cao đẹp hơn".
Lý
chứng được dùng trong trường hơp nầy, đó
là việc không xác định rõ cho đến lúc nào bào thai mới được coi là một con
người. Bởi đó không phải tất cả đều đồng thuận trong cách thức phán đoán.
Thời
gian đó được xác định tùy hỷ và việc bảo vệ pháp lý cho bào thai được xác định
ai muốn ghĩ sao cũng được:
- "sau một thời gian định chế thực định
và rắc rối của chúng ta" (R. Green, Toward a Copernican Revolution
of Our Thinhking about Life's Beginning and Life's End, in A Statement on
Embryo Research by Ramsey Colloquium, in
First Things, Jannuary 1995, p 19).
Cho
đến đâu luòng tư tưởng cá nhân chủ nghĩa và chủ quan vừa kể có thể dẫn dắt
chúng ta theo?
Chúng
ta không biết được, nhưng theo lời cảnh cáo cổ điển, ai trong chúng ta cũng biết:
- "một sai lầm nhỏ bé lúc đầu sau
cùng có thể trở thành đại hoạ".
Kết
luận.
1
- Luật
thiên nhiên là văn phạm phổ quát cho mọi người.
Cha
ông của các nền dân chủ hiện đại của chúng ta đã tiền giả định một cách hiển
nhiên phải có một nền tảng luân lý
cho các tổ chức cơ chế và chính hướng, nếu muốn thu nhận được kết quả,
nhưng nếu không " bảo vệ cây và gốc rễ ", thì thật là một ảo
tưởng.
Trước
sau gì rồi cũng chỉ còn có trong tay các trái khô.
Đức
Thánh Cha Gioan Phaolô II đã chỉ cho thấy trước Liên Hiệp Quốc luật
thiên nhiên như là văn phạm chung, nằm bên dưới mọi nền tảng văn hoá và
là điều kiện đòi buộc "không có không được" (sine qua non) cho bất cứ một cuộc đối thoại quốc
tế nào:
- "Nếu
chúng ta muốn cho một thế kỷ đàn áp bó buộc phải nhường bước cho một thế kỷ
thuyết phục , chúng ta phải có được một con đường để bàn luận, với ngôn ngữ mọi
người đều hiểu được và chung cho tất cả, về tương lai của con người. Luật
luân lý thiên nhiên được ghi khắc vào trong tâm hồn của mỗi người, là một
loại văn phạm ", cần cho thế giới để đối đầu với cuộc thảo luận nầy cho
chính tương lai mình" (Discorso all'ONU 1995, n.3).
2
- Phục vụ công ích bằng cách thăng tiến gia đình.
Chính
trị có ích lợi,
- khi biết giới hạn lãnh vực động tác của chính
mình,
- khi nhận biết phận vụ phụ túc bảo trợ (sussidiarietà)
của chính mình,
- khi để cho mình được định hướng bởi những
gì đi trước mình và những gì trổi vượt hơn mình.
Một
nền chính trị tự mãn trở thành một loại chính trị ý thức hệ, ngược lại với
những gì là lý tưởng chính trị phải phục vụ.
Gia
đình có trước chính trị, và bởi đó điều tốt nhứt là chính trị trung thành phục
vụ gia đình,
- với tư cách gia đình là một trong những
giá trị nền tảng của luật thiên nhiên,
- và gia đình là học đường nơi con người học
biết được văn phạm của công ích.
NGUYỄN HỌC TẬPNGUYỄN HỌC TẬP
(Viết theo huấn từ của Đức Hồng Y
Angelo Sodano, Thư Ký Văn Phòng Quốc Vụ Khanh Toà Thánh, nhân buổi tiếp kiến Văn Phòng Toà Thánh với các nhóm đại diện
Chính Quyền, Quốc Hội và các chuyên gia
luật pháp Âu Châu từ 22 - 24 tháng 10 năm 1998, do Thánh Bộ chuyên về gia đình
tổ chức, trích từ nhật báo L'Osservatore
Romano, 23.10.1998).
1 - Giới thiệu chủ đề.
Chủ đề chúng ta đang muốn đề cập đến,
đó là "Người làm chính trị phục vụ công ích".
Dĩ nhiên Đức Hồng Y không phải là một
chuyên gia về chính trị hay luật pháp, nên huấn từ của ngài không đi sâu vào
các lãnh vực cá biệt của tư tưởng "công ích" (kinh tế, an
ninh quốc gia, y tế, tương giao quốc tế...), mà chỉ đề cập đến một vài
phương diện tổng quát,dựa trên lãnh vực luân lý.
2 - Người làm chính trị có phận vụ
phục vụ công ích.
Quan niệm chính trị phục vụ công ích, lợi ích công cộng, là tư tưởng minh nhiên hàm chứa
ngay trong danh xưng của nó. Bởi lẽ đó là lý do chính danh hoá cho quyền lực cá
biệt của động tác quyền lực chính trị.
Đây là quan niệm cao cả và kỳ vọng trên
lý thuyết, cũng như trong nhãn quang của dân chúng. Chính trị có liên quan đến
quyền lực, và phận vụ của chính trị vì đó là phục vụ, bằng cách dùng dụng cụ cá
biệt đó.
Theo chiều hướng của Thánh Kinh, tác động
phục vụ đó phải nhằm thực hiện để phục vụ người yếu thế trong xã hội:
- "Hỡi Anh Em, những người đặc trách công việc chung, anh em biết
rõ rằng động tác chính trị là một nghệ thuật cao qúy và khó khăn (cfr. Gaudium
et Spes, 75), đòi buộc phải có hành động trong sáng..." ,(in Insegnamenti di Giovanni
Paolo II, vol. XIV, 2, p. 680-683).
Không ai không biết mức độ anh hùng của
việc từ bỏ lợi ích riêng tư, bè phái, phe nhóm mà nguyên tắc đó lắm khi đã tiên liệu
trong cuộc sống thực tế của người làm chính trị, bởi lẽ rất thường khi gặp phải
những động lực của tội ác thúc đẩy, người làm chính trị tìm kiếm những quyền lực
có khả năng dễ dàng đảo lộn các bậc thang giá trị.
Lắm khi chính trị phải phục vụ, nhưng kết
quả đâu không thấy và đó chính là điều gia tăng thêm đặc tính thiết yếu của
chính trị.
Giáo Hội không ngần ngại định nghĩa động
tác chính trị như là một thể thức bác ái trổi thượng, là ơn gọi hoàn hảo
trong ý nghĩa của danh từ (ĐTC Piô XI, Discorso ai dirigenti della
Federazione Universitaria Cattolica, 18.12.1927, in Discorso di Pio XI, ed.
it., a cura di Domenico Bertetto S.D.B., vol I : 1922-1928, p. 742-746 (744-745).
3 - Mất tin tưởng đối với quan niệm
"công ích".
Nếu có người tranh luận về tư tưởng
chính trị có phục vụ công ích hay không, thì chắc chắn cũng có người đặt dấu hỏi về quan niệm thứ hai trong chủ đề của
chúng ta, bởi lẽ trong lãnh vực chính trị -luật pháp hiện đại, quan niệm "công
ích" là một quan niệm gây nên nhiều tranh luận, đến nỗi có người cho rằng
đó là quan niệm đặc thù của "nhóm công giáo".
Hậu quả tiêu cực của tâm thức vừa kể
không chỉ giới hạn trong lãnh vực giữa nhũng nhà chuyên môn với nhau, mà còn thẩm
thấu trải rộng ra trong cả tổ chức xã hội.
Một tài liệu của Hội Đồng Giám Mục Anh Quốc đã nói lên tình trạng đó như sau:
- "Dân chúng không còn tin tưởng rằng nguyên tắc vừa kể đáng còn
được mình tin cậy nữa. Dân chúng cảm nhận nguyên tắc trên đã được đưa ra tranh
luận trên lý thuyết và không còn ai lưu ý đến trong thực hành. Mất đi lòng tin
tưởng đối với quan niệm công ích nầy là môt trong những yếu tố chính yếu giải
thích tâm tư bi quan về tổ chức quốc gia. Nói lên ý nghĩa của tinh thần trách
nhiệm đã bị sa sút đi và tinh thần liên
đới hỗ tương đã ngã về bóng xế chiều - điều đó có nghĩa là chất xi măng liên kết
cá nhân và xã hội bị đã mất đi", (HDGM Anh Quốc và Galles, Il Bene
Comune e la Dottrina
Sociale della Chiesa, 1996, n. 116).
Không thể có được một lý tưởng xã hội
có khả năng thúc đẩy động tác liên đới, nếu công lý chỉ đưọc coi là những gì phụ
thuộc thứ yếu.
Không ai có thể đặt hy vọng vào một toà
nhà đuợc xây trên cát (Gilles Lipovetsky, Le crépuscle du devoir. L'étique
indolore des nouveaux temps démocratiques, Gallimard, Paris 1992).
3.1. Quan niệm Trung
C ổ về công ích và thay đổi ý nghĩa chính trị trong thời hiện
đại.
Có lẽ chúng ta nên nhớ lại một vài yếu
tố lịch sử tiến trình biến chuyển quan niệm "công ích". quan niệm tò koinòn agathòn của
Hy Lạp được dịch ra La
Tinh thành bonum comune, được khai sinh từ tư
tưởng chính trị của Platon và Aristote, và có được thêm tằm quan trọng đáng kể ở
thời Trung C ổ.
Các tư tưởng gia cỗ dùng từ ngữ vừa kể
để định nghĩa căn nguyên và mục đích hoạt động chính trị.
Kế đến, trong thời Trung C ổ, do ảnh hưởng huấn dụ của
Thánh Phaolô về "Thân Thể Mầu Nhiệm Chúa Ki Tô", từ ngữ có
thêm được một tầm quan trọng đặc biệt dưới ánh sáng một tổ chức xã hội có
tương quan trật tự, nhấn mạnh đến tư tưởng việc các thành phần phải tôn
trọng lợi ích của tất cả, tuy nhiên vẫn nhận biết rằng nơi con người có một
tầm mức vượt hẵn cao cả hơn những gì thuộc lãnh vực chính trị (I-II, 21,4, ad
3):
- "homo non ordinatur ad comunitatem politicam secundum se totum
et secundum omnia sua" (con
người không phải được dựng nên cho cộng đồng chính trị , mà cho những gì tất cả
hoàn hảo thuộc về mình và cho tất cả những gì là của mình).
Quan niệm thời Trung C ổ đó gợi ý cho hoạt động
chính trị được đặt trên ba nguyên tắc trọng đại:
- Thiên Chúa là Đấng Tạo Hoá và là Đấng thiết định tất cả tạo vật:
trong mỗi tạo vật có một lề luật vĩnh viễn được khắc ghi vào bản thể
và bởi đó trở thành luật tự nhiên, điều hành mọi tạo vật và một
cách đặc biệt là định hướng con người trong cuộc sống và động tác của mình.
- Bởi đó trước moi lề luật thực định (lex positiva), đều đã có một luật
lệ vĩnh viễn và tự nhiên, mà từ đó pháp luật thực đinh của con người phải
rút ra nguồn cảm hứng và luật định để áp dụng thực tế . .
- Đối với người tín hữu Chúa Ki Tô, tự do không phải là những gì tách
ra khỏi lè luật: bởi lẽ mục đích của tự do hàm chứa trong trong việc ý thức
rằng lề luật định hướng mình hướng về Thiên Chúa (nếu là lề luật chính
đáng theo ý nghĩa vừa kể) và làm cho mình thể hiện ra trong động tác chính
đáng thực tế.
Kế đến các tác giả như Macchiavelli,
Hobbes và Locke thay đổi cách giải thích mục đích của hoạt động chính trị:
- họ đặt nặng trọng tâm vào các
phương thức tổ chức cơ chế quyền lực,
- và quan niệm về một xã hội hiệp nhứt theo định luật tự nhiên, được
thay thế bằng quan niệm hoà hợp thoả thuận giữa các quyền của các chủ thể cá
nhân trong xã hội (kể cả những nhượng bộ bất chính)
Người ta vẫn tiếp tục ban thảo với nhau
về " công ích " (hoà bình, thịnh vượng) nhưng với
những nội dung khác xa đối với những gì thuộc về quan niệm khởi thủy.
Chúng ta đang ở vào thời đại khế
ước, xa xôi đối với quan niệm công ích như là gia sản thành thực chính
đáng tự bản thể của nó.
Nhãn quan hiện đại theo duy ích chủ
nghĩa (utilitarisme) là kết quả của một nhân sinh quan mới, theo đó thì con
người tự bản tính của mình là một chủ thể chống xã hội.
Bởi đó xã hội được thiết lập nên, cơ chế
quốc gia được lập ra, là để " kiểm soát " các đam mê ích kỷ,
các ganh đua đố kỵ và tham vọng thuộc bản tính tự nhiên của con người.
Từ đó chúng ta có câu nói bất hủ của Hobbes,
"homo homini lupus" (con người là chó sói đối với người khác)
và tư tưởng về hoạt động tôi chảy của một xã hội mà chúng ta không thể chấp nhận
được.
Chinh trên những nền tảng mới vừa được
đề cập, mà phần lớn tâm thức của các chính quyền được dựa theo để hiểu công
ích như là một tài sản lợi ích, thịnh vượng, lợi ích rộng lớn hơn cho số
dân chúng càng đông hơn càng tốt.
3.2. Quan niệm hiện đại của
Giáo Hội đối với công ích.
Dựa trên các quan niệm dồi dào của thời
Trung C ổ về công
ích, được hội nhập thêm vào các yếu tố mới hiện đại, nhứt là vào các quan niệm
về các quyền của con người, Giáo Hội khởi đầu lại một lần nữa suy tư về quan niệm
vừa kể với những đóng góp tổng hợp được nói lên trong Thông Điệp Mater et
Magistra (n. 70), Pacem in terris (n. 57), cũng như tiếng nói của Công Đồng
Vatican II (Gaudium et spes, nn. 26-74 và của Sách Giáo Lý Giáo Hội Công
Giáo (n. 1906).
Xin được trích dẫn định nghĩa về công
ích của Công Đồng Vatican II:
- "Công ích là tổng hợp tất cả các điều kiện xã hội cho phép và
tạo điều kiện thích hợp nơi mỗi thành viên cá nhân, nơi các gia đình và các hiệp
hội, tổ chức xã hội để đạt được một cách nhanh chóng và hoàn hảo những gì trọn
hảo của mình".
4 - Công ích và luật tự nhiên. Phục
vụ công ích khởi đầu từ luật tự nhiên.
Thời Trung C ổ quan niệm chính trị thoát xuất từ một
nhãn quang về con người, trong đó được giả dịnh trước một trật tự luân
lý khách quan, một luật tự nhiên không tùy thuộc vào bất cứ một thoả ước xã hội
hay một đạo luật thực định (lois positive) nào.
Nhãn quang đó đã mất đi trong thời điểm
hiện tại của chúng ta, với khuynh hướng càng ngày càng nhấn mạnh đến quan niệm
cá nhân về con người và luân lý chỉ là những gì thuộc quan niệm chủ quan.
Hiện nay, chính trị đang đứng trước
thái độ phải chọn lựa nầy: định hướng hoạt động chính trị theo nhãn quang luật
tự nhiên (jusnaturalisme), tức là nhận biết các giá trị khách quan của con
người) hay theo nhãn quang phương thế dụng cụ, chỉ nhằm làm sao cho tổ chức hệ
thống cơ chế được hoạt động điều hoà, tốt đẹp.
Liên quan đến tư tưởng vừa kể, chúng ta
có thể nhớ lại lời của ĐTC Phaolô VI:
- "Dĩ nhiên con người có thể tổ chức thế giới không cần có Thiên
Chúa, Nhưng không có Thiên Chúa con người sau cùng chỉ có thể tổ chức chống lại
con người" (cfr. Populorum
progressio).
ĐTC Gioan Phaolô II, trong thông Điệp Evangelium
vitae, một lần nữa đã đặt lại ngón tay trên vết thương vừa kể:
- "Nếu không có một chân lý cuối
cùng nào hướng dẫn và định hướng hoạt động chính trị, lúc đó các tư tưởng và những
xác tín có thể dễ dàng trở thành dụng cụ cho mục đích quyền lực. Một nền dân chủ
không có các giá trị, có thể bị hoán chuyển dễ dàng thành một chế độ toàn trị
minh nhiên hay lường gạt ẩn nấp, như lịch sử đã chứng minh" (ĐTC Gioan Phaolô II, Evangelium
vitae, n. 101).
Thế giới luật pháp và chính trị ngày
nay đang có khuynh hướng không chấp nhận nhãn quang luật tự nhiên trong việc
thiết định luật pháp, là những điều khoản xác định những gì mà hoạt động chính
trị có ý thực hiện cho "công ích".
4.1. Khiếp sợ đối với ý thức hệ.
Có những người muốn giữ tách biệt luật
tự nhiên và luật lệ dân sự, vì họ cho rằng ảnh hưởng lẫn nhau giữa lãnh vực nầy
đến lãnh vực kia có thể làm nguy hại cho thể chế dân chủ. Bởi lẽ theo những người
vừa kể, lề luật không được viết thành văn bản, như luật tự nhiên, là " lề
luật không chính xác " và có thể bị ảnh hưởng của những lối giải thích
quá đáng hay quá khích theo ý thức hệ mình muốn làm nổi bậc hay bênh vực. Bởi
đó có thể có những người giải thích một cách áp đặt độc tài theo họ muốn, chống
lại ý muốn của đa số là ý muốn của đặc tính dân chủ.
Vậy ai là người quyết định "công
ích" là gì ?
Làm sao có thể kiểm nhận được đường lối
giải thích nào là chính đáng, đáng tin cậy?
4.2. Trả lời cho mối lo âu. Luật tự nhiên là vì sao bắc đẩu định
hướng đời sống chính trị.
Chúng ta thành tâm xác tín rằng, ngược
lại những tư tưởng vừa được đề cập đến, luật tự nhiên là vì sao bắc đẩu định
hướng chúng ta hướng về nhưng gì chính đáng nhứt cho thể chế dân chủ.
Điều đáng sợ thường có thể xảy ra giữa
việc lầm lẫn nhưng gì luật tự nhiên đòi buộc phải có và việc định chân giá trị
các hậu quả tiêu cực của việc không chấp nhận luật tự nhiên.
4.2.1. Hiểu biết một cách chính đáng: luật tự nhiên không phải là
một "toa thuốc".
Không phải ít khi chúng ta nhận thức được
có sự lầm lẫn về quan niệm luật tự nhiên, trong các cuộc tranh luận chính trị
và luật pháp, cũng như trong các phân khoa và học viện về pháp luật.
Nhiều tư tưởng xác quyết về tính cách
"không chính xác", cũng như khó mà xác định rõ ràng đâu là nội
dung của nó, do nhiều lập trường khác nhau có liên qua đến chủ đề.
Từ đó đưa đến kết thúc hệ trọng: vì có
quá nhiều chủ thuyết khác nhau về nội dung của luât tự nhiên, nên tốt hơn là loại
bỏ quan niệm luật tự nhiên đi, trong việc thiết định thể chế và cấu trúc xã hội.
Kết luận như vừa kể là một kết luận ý
thức hệ, cho rằng loại bỏ đi luật tự nhiên, chúng ta mới có được mội dung chắc
chắn cho việc tổ chức xã hội.
Cho rằng quan niệm như vậy, quan niệm
luật tự nhiên, cần phải được loại bỏ đi
, bởi vì không đem đến cho chúng ta những gì chắc chắn trong các trường hợp thực
tế, phải chăng đó cũng là thái độ xác quyết đúng đắn cần loại bỏ đi loại dược
phẩm, không có khả năng giải quyết một cách quyết định trong mọi trường hợp bệnh
hoạn.
Luật tự nhiên không phải là "toa
thuốc" để giải quyết hết mọi loại vấn đề luân lý, hành chánh, luật
pháp và phương thức tổ chức cơ chế xã hội.
a) Ở cấp bậc thứ nhứt, luật tự nhiên cung ứng cho chúng ta những
nguyên tắc tổng quát; xác nhận quyền được sống, có nghĩa là nhận biết bất
cứ ai là con người lành mạnh đều có khả năng
- nhận biết rằng đời sống, sự hiểu biết, xã hội tính, quyền sinh con cái
và nhưng thực thể căn bản khác là những nội dung tốt đẹp
- để phát triển con ngưòi có một cuộc sống cho ra người và một xã hội xứng
đáng với con người.
b) Ở cấp bậc thứ hai, rất tiếc, những hậu quả thiết thực của các
nguyên tắc căn bản nầy, có thể bị các tư tưỏng tiền kiến làm lu mờ và sai trái
đi,sự thiếu hiểu biết, đam mê, thái độ ỷ lại dựa vào quyền lực, lòng ước muốn tự
lập tuyệt đối...
Để vưọt thắng được những khó khăn đó, cần
phải có những cuộc thảo luận, thuyết phục, giải toả, học hỏi nghiêng cứu, suy
tư và trong một vài trường hợp phức tạp, chỉ có những người khôn ngoan và thận
trọng mới có khả năng giải toả được.
Luật tự nhiên không loại bỏ đi sức
cố gắng và tiến trình con người đi tìm chân lý trong các thực tại thiết thực. Tuy nhiên luật tự nhiên chỉ đường cho chúng ta đi đến được và bảo đảm
cho chúng ta điều chắc chắn rằng con người có khả năng hiểu biết được luật tự
nhiên là gì.
Trong lịch sử, luật tự nhiên đã có nhiều
tác đông.
Lich sử đã giúp lấp đầy những lỗ hỏng
thiếu sót của lề luật thực định (lois positives) và đã giúp cho để giải
thích được một cách công minh, đã tạo thuận lợi cho đối thoại giữa các dân tộc
và văn hoá,
- như là một loại văn phạm cần thiết để có thể hiểu nhau được,
- đã giữ phận vụ định chuẩn đối với các quan niệm trong lịch sử và định
hướng về những viễn ảnh cho tương lai,
- chuẩn định chính đáng hay bất chính những phán quyết lạm dụng cho rằng
đó là những gì đúng theo cách hành xử "tự nhiên" của con người,
dẫn đưa dòng lịch sử của các dân tộc đến những chân trời công chính hơn.
Nói tóm lại, trong nhãn quang vừa kể,
luật tự nhiên thể hiện trước cho hình ảnh nền luật phải có trong tương lai (José
Luis, L. Aranguren, Ética y politica, Biblioteca Nueva, Madrid 1996, p.
39).
4.2.2. Không có luật tự
nhiên, ai muốn làm gì cũng được.
Mối lo âu của nhiều tư tưởng gia chững
chạc không phải là không có lý chứng. Đời sống xã hội với các cấu trúc cơ chế
luật pháp của mình đòi buộc phải có nền tảng tối hậu.
Nếu không có lề luật nào khác hơn là luật
lệ dân sự, chúng ta phải chấp nhận rằng bất cứ giá trị nào, ngay cả đối với những
giá trị mà con người đã phải chiến đấu và cho rằng là những giá trị căn bản
trong cuộc lữ hành lâu dài để tiến đến tự do, cũng có thể bị xóa đi, đơn sơ chỉ
vì được đa số phiếu đồng thuận.
Những ai phê bình, không có thiện cảm với
luật tự nhiên, cần nên mở mắt ra trước viễn ảnh vừa kể có thể xảy ra và khi họ
phát động đề thảo ra luật pháp - đối ngược lại công ích đối với những nhu cầu
căn bản của nó - họ nên ý thức được hậu quả các động tác của họ, bởi lẽ những động
tác đó có thể đưa xã hội đến một chiều hướng nguy hiểm. Và cũng vì khi muốn giới
hạn các hậu quả của một đạo luật, chúng ta cần nên nhớ đến câu nói của
Chesterton:
- "Luật pháp tùy thuộc vào bản tính của con người chớ không phải
tùy thuộc vào ước muốn của nhà lập luật, và sẽ đem lại cho chúng ta hậu quả mà
chúng ta đã gieo vãi trong đó"
(Gilbert Keith Chesterton, Eugenics an Other Evils, Lendine 1922, p. 16).
4.2.3. Không có luật tự nhiên, người làm chính trị có thể giữ được
tính cách độc lập của mình không?
Không có một nền tảng vững chắc bảo chứng,
làm thế nào nhà lập pháp có thể chống chọi lại áp lực của các nhóm bè phái vì lợi
thú riêng tư của nhóm?
Trách nhiệm của nhà lập pháp thật lớn
lao, và khó khăn trong công việc của mình, phải chạm trán cũng không phải nhỏ.
Luật pháp được soạn thảo, chuẩn y và
ban hành đều phải đi theo một tiến trình, trong đó các nhóm lợi thú riêng tư có
khả năng đặt điều kiện, làm áp lực trên cả tiến trình, từ dự thảo đến cả nội
dung của các đạo luật.
Điều vừa kể có thể thúc đẩy người làm
chính trị làm thế nào đuợc nổi danh, được lòng dân chúng cho địa vị của mình,
không phải luôn luôn cùng đồng thuận với ý nghĩa trách nhiệm trọng đại của mình
trong chính trị.
Ở đây chúng ta chỉ có thể xin Thiên
Chúa ban cho nhà lập luật sức mạnh nội tâm để có thể chịu đựng được những áp lực
đó, không qụy ngã theo ciều hướng lợi thú thuận tiện.
Trong Thông Điệp Centesimus annus (1991),
ĐTC Gioan Phaolô II phân tích vấn đề thiết thực vừa kể và mời gọi hãy
suy nghĩ chính chắn về công ích, như là địa bàn kim chỉ nam, không gì có thể
thay thế được:
- "Ngay cả ở những quốc gia trong đó các hình thức dân chủ có hiệu
lực, không phải luôn luôn các quyền đó đều được tôn trọng. Không phải chỉ nói đến
gương mù gương xấu của việc phá thai, mà cả những phương diện liên quan đến một
cơn khủng hoảng các hệ thống dân chủ, mà nhiều khi các hệ thống đó mất đi định
hướng, khả năng quyết định tùy theo công ích. Những đòi hỏi từ xã hội được phát
xuất lên nhiều khi không được duyệt xét theo tiêu chuẩn công lý và luân lý, mà
tùy theo động lực bầu cử hay tài chánh của các nhóm chủ trương nêu lên. Những
loại sai đường tập quán chính trị đó vói thời gian sẽ tạo nên bất tín nhiệm và
dững dưng, với hậu quả làm cho giảm thiểu động tác tham dự chính trị và tinh thần
sống chung trong cộng đồng dân chúng, vì họ cảm thấy bị thiệt hại và mất hy vọng.
Điều đó đưa đến kết quả không còn khả năng đặt các lợi thú cá biệt vào một nhãn
quang hợp lý của công ích. Thật vậy, công ích không phải chỉ đơn sơ là tổng
hợp các lợi thú riêng tư, mà mạc nhiên bao gồm việc đánh giá các lợi thú đó và
việc tổng hợp đúc kết được thực hiện dựa trên nền tảng quân bình các giá trị
và, nói cho cùng, trên nền tảng một sự hiểu biết chính đáng về phẩm giá và các
quyền của con người"
(CA, n. 47).
4.2.4. Những hậu quả của việc
khước từ luật tự nhiên: một vài ví dụ.
Không thiếu gì những biến cố đáng lo ngại
từ việc đánh mất đi ý nghĩa của lợi ích thiên nhiên khách quan.
a) Cộng Sản
chủ nghĩa.
Cộng
Sản chủ nghĩa (hay Mát Xít chủ nghĩa) chối bỏ đi quyền tự nhiên của con người,
cho rằng đó là quan niệm thuộc về ý thức hệ của bọn tư sản và bởi đó cần phải
tiêu diệt tận gốc rễ.
Marx
cho rằng các quyền (mà bọn tư sản cho rằng mình có và đòi buôc phải tôn trọng
chỉ là những gì tùy thuộc vào hệ thống kinh tế) và
- "nhà lập pháp không thể tự mình
thiết định tùy hứng điều gì không bị mức độ phát triển kinh tế ảnh hưởng đến;
không thể "chế biến ra" các quyền và tự do được phát sinh chặt chẽ từ
các mối liên hệ xã hội, bằng cách hội nhập cá nhân vào một hệ thống xã hộ -
kinh tế xác định" (V. Kudyavtsev, Human Rights Concepts, in Social
Science (URSS Academy of Science) 18 (1987/1), p. 84.
b) Tự do chủ nghĩa.
Sau
khi ý thức hệ Cộng Sản Chủ Nghĩa thực định sụp đổ, lối giải thích kinh tế như vừa
kể có lẽ không còn có ai đầu óc tối tăm nghe theo nữa.
Nhưng
định chuẩn nền tảng chối bỏ sự hiện hữu các giá trị tuyệt đối có trước bất cứ lối
giải thích xã hội nào,vẫn còn xuất hiện trong một vài văn bản khác.
Một
ví dụ đã tạo ra không ít lo ngại đó là phán quyết của một vài vị thẩm phán Tối
Cao Pháp Vi ện
Hoa K ỳ, trong
một phiên toà về các chủ đề như hôn nhân, sinh sản, ngừa thai, được tuyên bố
như sau:
- "Những vấn đề đó hàm chứa việc
lựa chọn nội tại riêng tư và cá nhân, mà một con người có thể lựa chọn trong đời sống mình, đó là những lựa chọn
nồng cốt cho phẩm giá và tự lập cá nhân, và nồng cốt cho quyền tự do của chúng
ta . Xác định quan niệm của chính mình về đời sống, về ý nghĩa, về vũ trụ và về
chính đời sống con người là những gì liên hệ đến trung tâm điểm của tự do"
(Planned Parenthood vs. Casey, 1992).
Tối Cao Pháp Vi ện có thể bảo vệ
bằng luật pháp giá trị của tự do cá nhân chống lại bất cứ áp đặt nào không
chính đáng. Ước vọng đó là điều chính đáng, nhưng thái độ bảo chứng cá nhân chủ
nghĩa tuyệt đối của Tối Cao
Pháp Vi ện không được đưa ra dựa trên một định chuẩn nào cần
thiết để thiết định các giá trị theo một hệ thống bậc thang giá trị, bảo chứng
đó có thể làm cho xã hội trở thành hoàn
toàn phân hoá.
c) Pha trộn biến chế các yếu tố di truyền
(genetica).
Từ
thái độ quyền tự do của người mẹ chấm dứt tiến trình mang thai, hiện nay chúng
ta đi đến tự do của các nhà nghiêng cứu biến chế, pha trộn bào thai con người,
như họ muốn, vì "những mục đích quan trọng, lợi ích cao đẹp hơn".
Lý
chứng được dùng trong trường hơp nầy, đó
là việc không xác định rõ cho đến lúc nào bào thai mới được coi là một con
người. Bởi đó không phải tất cả đều đồng thuận trong cách thức phán đoán.
Thời
gian đó được xác định tùy hỷ và việc bảo vệ pháp lý cho bào thai được xác định
ai muốn ghĩ sao cũng được:
- "sau một thời gian định chế thực định
và rắc rối của chúng ta" (R. Green, Toward a Copernican Revolution
of Our Thinhking about Life's Beginning and Life's End, in A Statement on
Embryo Research by Ramsey Colloquium, in
First Things, Jannuary 1995, p 19).
Cho
đến đâu luòng tư tưởng cá nhân chủ nghĩa và chủ quan vừa kể có thể dẫn dắt
chúng ta theo?
Chúng
ta không biết được, nhưng theo lời cảnh cáo cổ điển, ai trong chúng ta cũng biết:
- "một sai lầm nhỏ bé lúc đầu sau
cùng có thể trở thành đại hoạ".
Kết
luận.
1
- Luật
thiên nhiên là văn phạm phổ quát cho mọi người.
Cha
ông của các nền dân chủ hiện đại của chúng ta đã tiền giả định một cách hiển
nhiên phải có một nền tảng luân lý
cho các tổ chức cơ chế và chính hướng, nếu muốn thu nhận được kết quả,
nhưng nếu không " bảo vệ cây và gốc rễ ", thì thật là một ảo
tưởng.
Trước
sau gì rồi cũng chỉ còn có trong tay các trái khô.
Đức
Thánh Cha Gioan Phaolô II đã chỉ cho thấy trước Liên Hiệp Quốc luật
thiên nhiên như là văn phạm chung, nằm bên dưới mọi nền tảng văn hoá và
là điều kiện đòi buộc "không có không được" (sine qua non) cho bất cứ một cuộc đối thoại quốc
tế nào:
- "Nếu
chúng ta muốn cho một thế kỷ đàn áp bó buộc phải nhường bước cho một thế kỷ
thuyết phục , chúng ta phải có được một con đường để bàn luận, với ngôn ngữ mọi
người đều hiểu được và chung cho tất cả, về tương lai của con người. Luật
luân lý thiên nhiên được ghi khắc vào trong tâm hồn của mỗi người, là một
loại văn phạm ", cần cho thế giới để đối đầu với cuộc thảo luận nầy cho
chính tương lai mình" (Discorso all'ONU 1995, n.3).
2
- Phục vụ công ích bằng cách thăng tiến gia đình.
Chính
trị có ích lợi,
- khi biết giới hạn lãnh vực động tác của chính
mình,
- khi nhận biết phận vụ phụ túc bảo trợ (sussidiarietà)
của chính mình,
- khi để cho mình được định hướng bởi những
gì đi trước mình và những gì trổi vượt hơn mình.
Một
nền chính trị tự mãn trở thành một loại chính trị ý thức hệ, ngược lại với
những gì là lý tưởng chính trị phải phục vụ.
Gia
đình có trước chính trị, và bởi đó điều tốt nhứt là chính trị trung thành phục
vụ gia đình,
- với tư cách gia đình là một trong những
giá trị nền tảng của luật thiên nhiên,
- và gia đình là học đường nơi con người học
biết được văn phạm của công ích.
NGUYỄN HỌC TẬP
Không có nhận xét nào: