André Menras Hồ Cương Quyết - Vừa mới trở về Pháp, tôi nhận được tin buồn, gây sốc, đáng lo, trĩu nặng đe dọa đối với giai đoạn đang mở ra ở Việt Nam: bà Đặng Thị Kim Liêng, mẹ của nữ blogger Tạ Phong Tần đang bị chế độ truy nã và bỏ tù, đã tự thiêu trước trụ sở Ủy ban nhân dân thành phố.
Trước nay tôi đã quá biết ở Việt Nam có những lực lượng của bóng tối và đàn áp. Nhưng tôi không lường được hết tầm rộng lớn của chúng. Tôi cũng không lường được sức tàn phá của áp lực tâm lý hàng ngày mà một hay nhiều cơ quan công an được vài dân quân ở quận hay phường giúp sức, cùng một số phần tử gây rối gần với bọn lưu manh hơn là người lương thiện có thể tác động lên những công dân bình thường chỉ có mỗi cái tội duy nhất là muốn bảo vệ đất nước mình chống ngoại xâm, tham nhũng và đàn áp bạo tàn.
Kinh nghiệm gắn liền với cuộc chiến đấu nhằm bảo vệ đất nước Việt Nam thân yêu của tôi chống Trung Quốc xâm lược đã cho tôi biết một cách trực tiếp và cụ thể cái nằm bên dưới đáng lo và đáng sợ của một hệ thống chính trị đầy những vùng tối. Ở đấy, người ta khủng bố một cách bí mật trong sương mù của tình trạng vô pháp luật, hay hại người công khai. Người ta cách ly về thể xác hay bằng sợ hãi những người dám nói lên và bày tỏ sự bất bình và lòng yêu nước của mình, ra khỏi gia đình, bạn bè của họ. Tôi đã khám phá ra những gì nằm bên dưới một hệ thống chính trị trong đó theo dõi về thể xác và thường xuyên những công dân lương thiện va bình thường, nghe lén điện thoại di động, kiểm soát liên lạc internet, tịch thu máy vi tính, điện thoại di động, cấm họ thuê nhà, bắt và bỏ tù một cách bí mật, kéo dài tùy thích thời gian giam giữ và chậm đưa họ ra trước “công lý”: tất cả những xâm phạm nghiêm trọng đến cá nhân, tài sản và tự do của họ ấy ngày càng trở thành tự nhiên, thậm chí là chuyện vặt. Trong mọi trường hợp luật pháp chân chính đều bị nhạo báng. Các vi phạm đó được thực hiện ngay tại chỗ, tùy tình huống, tùy ý thích của các nhà cầm quyền chính trị và các lực lượng gọi là “an ninh”. Không được phép có bất cứ sự kiểm soát nào và đòi hỏi một sự kiểm soát như vậy sẽ là nguy hiểm.
Việc cấm chiếu một cách thô bạo bộ phim của tôi bày tỏ tình đoàn kết với ngư dân bị tổn thương hồi tháng 11 năm 2011 (1), những ngăn trở lặp đi lặp lại mới đây không cho chiếu bộ phim hoàn toàn chính thức “André Menras: một người Việt” ở Sài Gòn (2), việc công khai theo dõi những người bạn của tôi: Cao Lập, Lê Công Giàu, Huỳnh Tấn Mẫm, Hạ Đình Nguyên… và những uy hiếp bất thành văn nhưng rõ ràng mà các biện pháp ấy chứng tỏ: tất cả những cái đó nằm trong một hệ thống có mục tiêu chính là tìm mọi cách làm nản lòng cuộc kháng cự ái quốc chống lại xâm lược của Trung Quốc và việc tổ chức cuộc kháng cự ấy. Tôi nói rõ hai chữ ái quốc và tôi thách bất cứ kẻ nào trong các thế lực của bóng tối đã đàn áp chúng tôi, trong số những kẻ thậm chí đã không đủ can đảm xưng rõ danh tính dưới những văn bản công khai để biện hộ cho các lệnh cấm của họ, tất cả những kẻ ấy hãy thử chứng minh rằng chúng tôi không yêu nước. Tôi không cho phép họ dạy chúng tôi những bài học yêu nước. Chúng tôi đã là những người yêu nước, chúng tôi đang là những người yêu nước, và sẽ mãi mãi là như vậy! Mục đích duy nhất của chúng tôi là bảo vệ Việt Nam, bảo vệ đất nước này chống lại một cuộc xâm lược hiển nhiên.
Những lý lẽ chính thống lảm nhảm đã được dùng ngay từ đầu để chống lại chúng tôi và lấy làm lý do cho những cấm đoán, theo dõi và đàn áp có thể được diễn đạt như sau: “Chớ làm bất cứ điều gì có nguy cơ khiến lãnh đạo Trung Quốc không bằng lòng và tạo điều kiện cho họ có những hành động trả đũa mạnh mẽ và bành trướng đối với Việt Nam. Phản đối, biểu tình, kháng cự là đẩy Việt Nam vào chỗ nguy hiểm. Cần im lặng và chịu đựng! Hãy để cho các thế hệ mai sau giải quyết những vấn đề này. Đây không phải là việc của các người. Đừng làm phức tạp thêm việc của lãnh đạo. Hãy tin tưởng ở lãnh đạo. Nếu không, chúng tôi bắt buộc phải có biện pháp chống lại các người để bảo vệ đất nước”. Chính bằng các lý lẽ quanh co đó và nhân danh “ổn định chính trị” mà một số nhà cầm quyền đã biến những người yêu nước chân chính thành mối uy hiếp đối với hòa bình và an ninh, khiến họ trở thành những phần tử phải kiểm soát, phải trấn áp, phải vô hiệu hóa hay, trắng trợn hơn, phải loại trừ khỏi đời sống xã hội. Cái vòng lẩn quẩn đã khép lại!
Nếu vào những thời đầu quan điểm đó có được một số người lãnh đạo yêu nước chia sẻ một cách lương thiện vì nó phù hợp với một tình thế khi Việt Nam còn tương đối bị cô lập, còn yếu, rất phụ thuộc Trung Quốc, thì ngày nay đã trở thành không thể biện minh, không thể bênh vực. Việt Nam không còn cô lập trước các tham vọng của Bắc Kinh. Một mặt trận chung chống bành trướng đã hình thành do phản ứng lại với các cuộc gây hấn của Trung Quốc ở Nhật Bản, ở Hàn Quốc, ở Philippines, ở Hoa Kỳ, ở Nga, ở Ấn Độ, ở New-Zealand, ở Úc. Khắp thế giới, và ngay cả ở Trung Quốc, dư luận công chúng đã nhận ra bản chất thật của chế độ Bắc Kinh và mối hiểm nguy nó gây ra cho hòa bình, an ninh và phát triển trong khu vực cũng như trên thế giới. Dư luận công chúng ở Việt Nam bị khóa miệng quá lâu vẫn không bị khuất phục. Trái lại trên nhiều mặt nó đã gia tăng sức kháng cự nhờ có các phương tiện thông tin hiện đại, không thể kiểm soát. Luật Biển được thông qua ở Quốc hội là một trong những kết quả tốt đẹp nhìn thấy được của sự thúc đẩy trên tầm cỡ quốc gia và quốc tế ấy của nhân dân nhằm bảo vệ quyền của các dân tộc và quyền con người bị Bắc Kinh và những kẻ phục vụ chính sách của họ công khai uy hiếp.
Tôi đã nhiều lần nói và viết rồi: Chính sách cúi đầu và những tháo lui liên tục là một thất bại nặng nề, một trách nhiệm nặng nề và tội lỗi của những kẻ đã áp đặt nó trong nhiều năm ở Việt Nam. Năm này sang năm khác, đối với những phản đối một cách hình thức mà lại thụ động hoàn toàn trên thực tế của phía Việt Nam, lãnh đạo Bắc Kinh chỉ có lấn tới, sáp nhập, củng cố, tổ chức, khiêu khích và chuẩn bị những vụ sáp nhập hung bạo mới... Cho đến giai đoạn Scarborough mới đây, họ càng làm điều đó ngày càng dễ dàng vì không gặp bất cứ kháng cự nào, mà lại còn luôn được ban tặng “16 chữ vàng” với lại “4 tốt” ngay cả khi họ ngược đãi, bỏ tù và làm tan gia bại sản ngư dân của chúng ta. Một số lãnh đạo cấp cao của Việt Nam ngày nay vẫn tiếp tục cái trò diễn dối trá và thảm hại đó với các đồng sự Trung Quốc của họ trong khi một hải đội Trung Quốc gồm 23000 tàu bán vũ trang rời đảo Hải Nam đi xâm chiếm tài nguyên và không gian Biển Đông Nam Á!!! Những người từng thành thật tin tưởng ở thiện chí của Trung Quốc thì nay đã thấy rõ cái hố ngăn cách giữa lời nói hòa bình và hành động chiến tranh của họ. Những người ấy chẳng có chút lý do danh dự nào nữa để còn nấn ná mãi trong thụ động hay im lặng. Họ thấy rõ những người lãnh đạo Trung Quốc đã quyết định tiếp tục cuộc bành trướng hung bạo giày xéo lên luật pháp quốc tế, lên các quyền của các dân tộc láng giềng, và cả của chính dân tộc họ.
Bọn diều hâu Bắc Kinh đã quyết dấn tới. Họ đã tuyên bố rõ ràng điều đó với toàn thế giới. Họ sẽ còn dấn tới nữa, dù chiến lược được sử dụng của họ là gì (bằng lực lượng quân sự công khai hay bằng đặc công giả dạng ngư dân) và cuối cùng sẽ làm đổ máu những người vô tội, những công dân Việt Nam hay các nước khác, như họ đã làm hồi 1974 và 1988. Họ sẽ không bao giờ ký COC để bị cột chặt vào luật đàm phán đa phương trên cơ sở Công ước của Liên Hiệp Quốc về chủ quyền trên biển mà họ đã ký. Đạo luật duy nhất của họ là luật của kẻ mạnh hơn, mà họ nhầm to tưởng họ đã có. Tất cả đã quá hiển nhiên.
Chỉ có một cuộc kháng cự thích đáng và thống nhất mới có thể đánh bại các ý đồ đen tối của bọn chúng. Sức kháng cự đó nhất thiết phải xuất phát từ nhân dân Việt Nam, không có nhân dân ấy thì những người lãnh đạo chẳng là gì cả. Sức kháng cự ấy cũng phải đến từ dư luận công chúng quốc tế. Vậy mà hiện nay một số người lãnh đạo đang làm gì? Họ đã cho phép những lực lượng của bóng tối do họ hay không do họ điều khiển làm những gì? Họ đàn áp, truy nả những người yêu nước ưu tú nhất, có ý thức mạnh mẽ và dũng cảm nhất. Họ đập vỡ một sự thống nhất vừa hình thành duy nhất có thể cứu đất nước. Thay vì nuôi dưỡng lòng tin, họ thiết lập sự sợ hãi. Thay vì tổ chức một sự kháng cự đông đảo, họ khuyến khích sự chia rẽ. Thay vì làm sống lại quá khứ để phục vụ hiện tại, họ gợi lại quá khứ để càng vùi sâu nó hơn trong các bảo tàng phủ bụi.
Tôi nói điều này với niềm lo lắng và nỗi buồn sâu sắc: ở Việt Nam đang có cánh cộng tác thật sự với Trung Quốc. Tôi dùng từ “cộng tác” theo nghĩa tiêu cực nhất. Cái nghĩa mà những người yêu nước của Pháp đã dùng trong thời thế chiến thứ hai để chỉ những người Pháp đứng về phe bọn chiếm đóng phát-xít chống lại cuộc kháng chiến của Pháp. Cái cánh Việt Nam cộng tác với Tàu này khá mạnh. Nó không xưng danh. Hành động sau lưng luật pháp. Điên cuồng chống lại mọi cải cách dân chủ, mọi sự lên tiếng của dân chúng. Nó đánh lén. Nó không do dự dựa vào bọn côn đồ. Theo lối Tàu.
Thật khủng khiếp cho nhân dân Việt Nam khi không còn lựa chọn nào khác ngoài cách hoặc là co rúm lại trong sợ hãi và hổ thẹn, hoặc là bước vào kháng cự, một cuộc kháng chiến lần thứ ba sau hai cuộc chống chủ nghĩa thực dân và chủ nghĩa thực dân mới. Những người yêu nước dấn mình vào cuộc kháng chiến này và sẽ dấn mình vào ngày càng đông, theo gương tổ tiên và tự dọn mình cho những hy sinh mới chống lại kẻ thù bên ngoài và bên trong. Quả là tấn bi kịch của Việt Nam phải sống bên cạnh Trung Hoa!
Đàn áp chỉ làm cho kháng chiến thêm vững mạnh. Mưu đồ chia rẽ lại đưa đến kết đoàn mạnh bơn. Mưu đồ cô lập lại thúc đẩy công cuộc tổ chức. Bởi vì sự nghiệp của những người yêu nước Việt Nam là chính nghĩa, hợp pháp và đã là một tiến trình sống còn khắc sâu trong lịch sử và văn hoa Việt Nam. Không gì có thể ngăn cản nó lên tiếng. Cuộc kháng cự đó cũng quyết liệt chống lại những lực lượng của bóng tối đang tạo điều kiện cho xâm lược của ngoại bang: không thể có ổn định chính trị trong cộng tác! Không bao giờ! Các lực lượng của bóng tối rất đáng sợ đó cũng bị đại đa số nhân dân khinh bỉ. Chúng còn nặng tội hơn cả chính bọn xâm lược là những kẻ còn có thể viện cớ vì quyền lợi của đất nước chúng trong chính sách bành trướng; còn đám cộng tác Việt Nam chỉ có một biện minh duy nhất là lợi ích riêng đen tối của chúng, chống lại lợi ích của chính nhân dân mình.
Còn có cách gọi nào khác hơn là “bọn cộng tác” những kẻ chịu trách nhiệm về việc cho nhiều thế hệ các công ty nước ngoài, thường là Trung Quốc, thuê hàng nghìn hecta đất ở những khu vực chiến lược của đất nước; những kẻ đem bán tống tháo một cách đáng xấu hổ cho Trung Quốc các tài nguyên thiên nhiên và năng lượng quốc gia; những kẻ cho phép hàng hóa Trung Quốc tràn ngập và bóp chết, phá hoại thị trường nội địa; những kẻ đem dâng cho tuyên truyền của Bắc Kinh các phương tiện truyền thông của Việt Nam; những kẻ thêm một ngôi sao (Việt Nam) lên lá cờ Trung Quốc trong dịp các sự kiện chính thức, lén dời các cột mốc biên giới, xóa trọn những hàng chữ dài trên các tấm bia ghi nhớ các cuộc xâm lược của Trung Quốc; những kẻ lén lút ngăn cấm thô bạo việc tưởng niệm các anh hùng ngã xuống trên biển đối mặt với hải quân Trung Quốc hay trên đất liền đối mặt với quân đội của họ hay quân đội bù nhìn của họ; những kẻ để hàng chục nghìn công dân Trung Quốc xâm nhập và cư trú một cách bất hợp pháp, rồi không có bất cứ sự kiểm soát nào có thể tiến hành những hoạt động chẳng chút liên quan đến lợi ích của đất nước; những kẻ từ nhiều năm qua cho phép các tổ chức lưu manh của Trung Quốc làm giàu trên lưng nhân dân Việt Nam bất chấp luật pháp của Việt Nam, làm ô nhiễm môi trường, đe dọa sức khỏe công cộng (vụ nuôi trồng ở Cam Ranh, vụ “bác sĩ” Trung Quốc ở Thành phố Hồ Chí Minh) v.v. và v.v.
Đàn áp những người yêu nước, các lực lượng của bóng tối bảo vệ và nuôi dưởng căn bệnh ung thư chính trị, kinh tế và xã hội này. Cho phép nó duy trì và phát triển. Dù muốn dù không cuộc chiến đấu yêu nước hôm nay đã đi đến chỗ hòa làm một với cuộc chiến đấu chống tham nhũng và vì dân chủ, để một lần nữa cứu đất nước. Tất cả các cuộc chiến đấu đó gắn liền với nhau như môi với răng. Nếu thái độ của những người lãnh đạo Việt Nam xứng đáng với tên gọi đó, nếu các lực lượng trong sạch và yêu nước trong Đảng Cộng sản Việt Nam, công an, quân đội không tỉnh thức để nhổ tận rễ đám cỏ dại sinh ra từ cộng tác với Trung Quốc và được nó nuôi dưỡng, nếu lực lượng đó không gắn chặt với nhân dân để chặn đứng những hành xử gần như mafia đang tồn tại trên hàng chục khu vực vô pháp luật của lãnh thổ đất nước, thì Việt Nam sẽ đi vào một thời kỳ chia xé đau đớn. Đã dến lúc thực hiện cuộc cách mạng của sự tinh sạch và sáng tỏ dân chủ!
Để kết luận, tôi muốn trở lại trường hợp tự thiêu nhắc chúng ta đau đớn nhớ lại những năm đen tối và những năm then chốt của Lịch sử Việt Nam. Cuộc tự sát này không diễn ra ở một nơi bất kỳ nào, mà là ngay trước trụ sở của nhà cầm quyền địa phương. Rõ ràng qua đó người chết muốn nói rằng đây là kết quả cả một phẫn nộ, một bất công khổng lồ, một niềm tuyệt vọng mênh mông mà các nhà cầm quyền phải chịu trách nhiệm phần lớn. Cuộc tự sát này là một cuộc tự sát xã hội, chính trị, không phải là tự sát vì rối loạn tâm thần. Khi một hệ thống đẩy các công dân đến mút đường cùng như vậy thì phải hỏi: Hệ thống đó có thể tồn tại lâu dài như vậy chăng? Tôi nghĩ rằng khi một phong trào, dù không có tổ chức, bắt đầu có những người tử vì đạo, hệ thống đó phải thay đổi, hoặc là nó sẽ biến mất. Đấy là một quy luật của Lịch sử. Những người lãnh đạo hiện nay buộc phải thật sự dọn dẹp hàng ngũ của mình khi còn có thời gian bởi vì bầu không khí đã rất dễ bắt lửa và những tia lửa bi đát như ở Bạc Liêu sẽ có thể dẫn đến một đám cháy khổng lồ.
Hãy ngừng truy nã những người yêu nước, hãy thực sự bảo vệ ngư dân bị tấn công, hãy thực hiện các biện pháp đã được luật pháp quy định về biển, hãy bảo vệ nông dân và đất đai của họ, hãy thực sự kiểm soát các công ty và và công dân Trung Quốc không vì bất cứ cảm tình riêng nào, nhanh chóng xem xét lại hiến pháp một cách dân chủ trên cơ sở hiến pháp 1946, đưa quyền được biểu tình hòa bình, tập họp tự do vào luật, tiến đến một nền báo chí tự do và có trách nhiệm... tất cả các biện pháp sớm muộn phải thực hiện ấy sẽ đánh bại các lực lượng của bóng tối hung hãn và đã bắt rễ sâu nhất. Đấy không phải là kết liễu một chế độ xa dân mà là cơ hội sống còn duy nhất của nó, gần, rất gần với nó.
Ngày 2 tháng Tám, năm 2012
A. M. H. C. Q.
Tác giả gửi trực tiếp cho BVN.
Nhà văn Nguyên Ngọc dịch
(1) Hôm nay ngày 2 thâng Tám tôi được tin một nhân vật của quyền lực bóng tối thuộc Ban Tuyên Giáo Trung Ương đã buộc Đài Truyền hình Quảng Ngãi, đang sẵn sàng chiếu bộ phim này, phải sửa cho nó có thêm “tính Đảng”.
(2) Một ví dụ về sự tùy tiện trong việc áp dụng luật của nhà cầm quyền và về việc cấm chiếu, dù là trong chỗ riêng tư, bộ phim “Hoàng Sa – Việt Nam: Nỗi đau mất mát” và những cản trở việc chiếu, dù trong chỗ riêng tư, bộ phim “André Menras: Một người Việt”. Nên biết rằng hơn một năm nay Truyền hình cáp Quy Nhơn QCTV1 và QCTV 2 đã chiếu phim này, không có phép, không có “văn bản” nào cả. Tổ chức được quyền ưu tiên bất hợp pháp đó chính là Pisico, một tổ chức hợp tác với hiệp hội Nhân Bang, một hiệp hội... Trung Quốc, mà Chủ tịch chẳng là ai khác ngoài viên Phó Chủ tịch Hiệp hội các nhà đầu tư Trung Quốc ở Việt Nam (Tuổi Trẻ ngày 15/6/2012)
Không có nhận xét nào: