Ngô Nhân Dụng, Người Việt - 7.5.2013: Những người làm thơ nhiều khi không nói thẳng ý kiến của mình, mà nói ngược lại. Thí dụ, blog của Nguyễn Trọng Tạo mới đăng một bài của nhà thơ Gia Hiền, mở đầu như thế này:
Thế hệ tôi, một thế hệ cúi đầu
Cúi đầu trước tiền tài, cúi đầu sau mông người khác
Cúi đầu trước chính mình, cúi đầu bạc nhược
Chỉ ngẩng đầu...
... vì...
... đôi lúc...
... phải cạo râu!
Nghe mấy câu thơ này thì có vẻ nản thật. Nhà thơ đang viết về những người “thế hệ tôi ba mươi tuổi đã già - và bốn chục thế là đời chấm dứt.” Nhưng có thật là thế hệ của Gia Hiền chịu cúi đầu, bạc nhược hay không? Nhiều thi sĩ viết thế mà người đọc phải nghĩ ngược lại. Như trong bài Tự Phận Ca của Nguyễn Cao, một nhà Nho vào thế kỷ 19, tác giả tự nói về mình như thế này:
“Hỡi ôi tạo vật sao lại sinh ra ta?
Cho ta có trí khôn mà chí khí ngắn ngủi
Cho ta thành người mà thân thể yếu đuối
Ðã chẳng bằng con ngựa câu ngàn dặm dọc ngang
Lại chẳng bằng con le le sông hồ rong ruổi.”
(Ta ta tạo vật hề dĩ ngã vi sinh - Dữ ngã dĩ trí nhi đoản kỳ chí - Dữ ngã dĩ thành nhi bệnh kỳ hình - Ký bất năng vi câu chi ngang ngang thiên lý - Hựu bất năng vi phù chi phiếm phiếm trung hành).
Chúng ta biết Tán Cao (chức sau cùng cụ giữ là Tán Tương Quân Vụ Bắc Kỳ) là một nhà Nho người Bắc Ninh khí tiết lẫm liệt. Ðỗ đầu kỳ thi hương năm 39 tuổi (1867), ông không muốn bước vào chốn quan trường, chịu sống nghèo nàn, về dậy dỗ đám trẻ trong làng. Nhưng khi quân Pháp đánh chiếm Hà Nội năm 1873, ông hô hào thanh niên cùng nhau lập đội quân nghĩa dũng, theo Nguyễn Thiên Thuật đánh giặc ngoại xâm trong hơn 10 năm trời, cho tới khi bị bắt.
Nguyễn Cao viết Tự Phận Ca chỉ nói đến thân phận mình; còn Gia Hiền nói về cả một thế hệ.
“Thế hệ tôi, cơm áo gạo tiền níu thân sát đất
Cuộc sống bon chen
Tay trần níu chặt
Bàn chân trần không dám bước hiên ngang.
Thế hệ tôi, nhận quá nhiều những di sản hoang mang
Ðâu là tự do, đâu là lý tưởng?
Ðâu là vì mình, và đâu là vì nước
Những câu hỏi vĩ mô cứ luẩn quẩn loanh quanh...”
Bài thơ kết thúc rất buồn:
Trăm năm sau, lịch sử sẽ ghi vài dòng vắn tắt:
Có một thế hệ buồn, đã nhạt nhẽo đi qua...
Nhưng người đọc vẫn nghĩ khác. Vì khi một người, hay một thế hệ đã ý thức được cảnh cúi đầu của mình, thì chắc chắn thế hệ đó, con người đó sẽ biết mình phải ngẩng mặt lên. Nói đến “ngẩng mặt” thì lại phải nhớ đến Nguyễn Ðắc Kiên, một thanh niên sống cùng thế hệ với Gia Hiền. Tập thơ và văn ông mối xuất bản mang tên “Hãy Ngẩng Mặt,” một bài thơ tặng những người đi biểu tình vì Hoàng Sa, Trường Sa vào Tháng Bẩy năm 2012:
Hãy ngẩng mặt lên
cho tôi thấy đôi mắt bạn
không cần hò hét
xin hãy cứ lặng im
Ðất mẹ có nói gì đâu
Ðất mẹ biết hết rồi.
Anh lại viết thêm bài thơ nữa tặng những người đi biểu tình vì Hoàng Sa, Trường Sa vào tháng 12 năm 2012:
“Nếu một ngày tôi phải vào tù
thì chắc chắn là nhà tù cộng sản
bởi vì tôi khao khát tự do.”
Nguyễn Ðắc Kiên cảm thấy được tiếng nói của Ðất Mẹ, như khi nghe tiếng khóc của một người đàn bà đau khi con sắp ra đời mà cảm thấy đất nước ta lại sắp hồi sinh:
“Chẳng sinh linh nào chào đời trên trái đất
lại không mang theo nỗi đau của mẹ lúc trở cơn
Cơn đau đẻ nước.”
Những câu thơ bi thương của Gia Hiền cũng diễn tả một nỗi đau đớn của thế hệ anh, chung trong tiếng khóc của “Cơn đau đẻ nước” mà Nguyễn Ðắc Kiên đang nghe thấy. Ðúng như nhận xét của nhà thơ Allama M. Iqbal người Pakistan viết trước khi quốc gia này ra đời: “Các dân tộc sinh ra từ trái tim của các thi sĩ.” Chúng ta đang nghe thấy những câu thơ báo hiệu nước Việt Nam sắp hồi sinh.
Dấu hiệu hồi sinh còn thấy trong hành động của những người cùng thế hệ đã đi biểu tình phân phát các bản tuyên ngôn quốc tế về quyền làm người; ở Sài Gòn có Nguyễn Hoàng Vi, Vũ Sỹ Hoàng; ở Nha Trang có Nguyễn Ngọc Như Quỳnh tức Mẹ Nấm; tại Hà Nội có Bùi Thị Minh Hằng. Họ chứng tỏ đây là một “thế hệ không cúi đầu.”
Thế hệ thanh niên ngày nay sẽ không chịu cúi đầu; sẽ không hổ thẹn với tiền nhân. Nguyễn Ðắc Kiên viết những câu thơ quả quyết “độc đảng là sai,” “dân chủ tự do là quyền của con người”:
“nếu có một bức tường Hà Nội
như Béc-Lin
ta sẽ sô đổ
Hà Nội sẽ vẫn còn
như Béc-Lin
bức tường đã đổ.
họ cũng như mình,
họ cũng đã từng sai.”
Chúng ta có thể tin rằng bất cứ thế hệ nào của dân tộc Việt Nam cũng có những người không chịu cúi đầu. Vì chúng ta cùng một dòng dõi với nhà Nho Nguyễn Cao đời trước. Bài Tự Phận Ca ông viết trước khi tự sát năm 1887, để nói lên nỗi ân hận không đánh đuổi được quân xâm lăng. Khi bị giặc Pháp bắt, họ dụ dỗ ông hãy chấp nhận chế độ bảo hộ để mời làm quan, ông đã khẳng khái từ chối. Ông đã tự mổ bụng ra cho quan quân Pháp thấy “gan ruột” mình, rồi nói: “Lòng dạ tôi như thế này đây!” Sau đó ông nhịn ăn, không chịu cho họ chữa thương, rồi chết. Nguyễn Cao đã noi gương Nguyễn Tri Phương, Hoàng Diệu. Hoàng Diệu, Nguyễn Tri Phương cũng noi gương Ðặng Dung, Trần Bình Trọng. Ðúng là “Hào kiệt đời nào cũng có.”
Trong bài Tự Phận Ca Nguyễn Cao trước khi chết đã nhớ đến các tấm gương hào kiệt đời xưa: Kiếm núi Sóc (Phù Ðổng Thiên Vương), Câu thơ đọc ở trên không (Lý Thường Kiệt), và cọc nhọn ở sông Bạch Ðằng (Trần Quốc Tuấn) - nguyên văn - Sóc chi kiếm! Không chi thi! Ðằng chi thung!
Thế hệ tôi, một thế hệ cúi đầu
Cúi đầu trước tiền tài, cúi đầu sau mông người khác
Cúi đầu trước chính mình, cúi đầu bạc nhược
Chỉ ngẩng đầu...
... vì...
... đôi lúc...
... phải cạo râu!
Nghe mấy câu thơ này thì có vẻ nản thật. Nhà thơ đang viết về những người “thế hệ tôi ba mươi tuổi đã già - và bốn chục thế là đời chấm dứt.” Nhưng có thật là thế hệ của Gia Hiền chịu cúi đầu, bạc nhược hay không? Nhiều thi sĩ viết thế mà người đọc phải nghĩ ngược lại. Như trong bài Tự Phận Ca của Nguyễn Cao, một nhà Nho vào thế kỷ 19, tác giả tự nói về mình như thế này:
“Hỡi ôi tạo vật sao lại sinh ra ta?
Cho ta có trí khôn mà chí khí ngắn ngủi
Cho ta thành người mà thân thể yếu đuối
Ðã chẳng bằng con ngựa câu ngàn dặm dọc ngang
Lại chẳng bằng con le le sông hồ rong ruổi.”
(Ta ta tạo vật hề dĩ ngã vi sinh - Dữ ngã dĩ trí nhi đoản kỳ chí - Dữ ngã dĩ thành nhi bệnh kỳ hình - Ký bất năng vi câu chi ngang ngang thiên lý - Hựu bất năng vi phù chi phiếm phiếm trung hành).
Chúng ta biết Tán Cao (chức sau cùng cụ giữ là Tán Tương Quân Vụ Bắc Kỳ) là một nhà Nho người Bắc Ninh khí tiết lẫm liệt. Ðỗ đầu kỳ thi hương năm 39 tuổi (1867), ông không muốn bước vào chốn quan trường, chịu sống nghèo nàn, về dậy dỗ đám trẻ trong làng. Nhưng khi quân Pháp đánh chiếm Hà Nội năm 1873, ông hô hào thanh niên cùng nhau lập đội quân nghĩa dũng, theo Nguyễn Thiên Thuật đánh giặc ngoại xâm trong hơn 10 năm trời, cho tới khi bị bắt.
Nguyễn Cao viết Tự Phận Ca chỉ nói đến thân phận mình; còn Gia Hiền nói về cả một thế hệ.
“Thế hệ tôi, cơm áo gạo tiền níu thân sát đất
Cuộc sống bon chen
Tay trần níu chặt
Bàn chân trần không dám bước hiên ngang.
Thế hệ tôi, nhận quá nhiều những di sản hoang mang
Ðâu là tự do, đâu là lý tưởng?
Ðâu là vì mình, và đâu là vì nước
Những câu hỏi vĩ mô cứ luẩn quẩn loanh quanh...”
Bài thơ kết thúc rất buồn:
Trăm năm sau, lịch sử sẽ ghi vài dòng vắn tắt:
Có một thế hệ buồn, đã nhạt nhẽo đi qua...
Nhưng người đọc vẫn nghĩ khác. Vì khi một người, hay một thế hệ đã ý thức được cảnh cúi đầu của mình, thì chắc chắn thế hệ đó, con người đó sẽ biết mình phải ngẩng mặt lên. Nói đến “ngẩng mặt” thì lại phải nhớ đến Nguyễn Ðắc Kiên, một thanh niên sống cùng thế hệ với Gia Hiền. Tập thơ và văn ông mối xuất bản mang tên “Hãy Ngẩng Mặt,” một bài thơ tặng những người đi biểu tình vì Hoàng Sa, Trường Sa vào Tháng Bẩy năm 2012:
Hãy ngẩng mặt lên
cho tôi thấy đôi mắt bạn
không cần hò hét
xin hãy cứ lặng im
Ðất mẹ có nói gì đâu
Ðất mẹ biết hết rồi.
Anh lại viết thêm bài thơ nữa tặng những người đi biểu tình vì Hoàng Sa, Trường Sa vào tháng 12 năm 2012:
“Nếu một ngày tôi phải vào tù
thì chắc chắn là nhà tù cộng sản
bởi vì tôi khao khát tự do.”
Nguyễn Ðắc Kiên cảm thấy được tiếng nói của Ðất Mẹ, như khi nghe tiếng khóc của một người đàn bà đau khi con sắp ra đời mà cảm thấy đất nước ta lại sắp hồi sinh:
“Chẳng sinh linh nào chào đời trên trái đất
lại không mang theo nỗi đau của mẹ lúc trở cơn
Cơn đau đẻ nước.”
Những câu thơ bi thương của Gia Hiền cũng diễn tả một nỗi đau đớn của thế hệ anh, chung trong tiếng khóc của “Cơn đau đẻ nước” mà Nguyễn Ðắc Kiên đang nghe thấy. Ðúng như nhận xét của nhà thơ Allama M. Iqbal người Pakistan viết trước khi quốc gia này ra đời: “Các dân tộc sinh ra từ trái tim của các thi sĩ.” Chúng ta đang nghe thấy những câu thơ báo hiệu nước Việt Nam sắp hồi sinh.
Dấu hiệu hồi sinh còn thấy trong hành động của những người cùng thế hệ đã đi biểu tình phân phát các bản tuyên ngôn quốc tế về quyền làm người; ở Sài Gòn có Nguyễn Hoàng Vi, Vũ Sỹ Hoàng; ở Nha Trang có Nguyễn Ngọc Như Quỳnh tức Mẹ Nấm; tại Hà Nội có Bùi Thị Minh Hằng. Họ chứng tỏ đây là một “thế hệ không cúi đầu.”
Thế hệ thanh niên ngày nay sẽ không chịu cúi đầu; sẽ không hổ thẹn với tiền nhân. Nguyễn Ðắc Kiên viết những câu thơ quả quyết “độc đảng là sai,” “dân chủ tự do là quyền của con người”:
“nếu có một bức tường Hà Nội
như Béc-Lin
ta sẽ sô đổ
Hà Nội sẽ vẫn còn
như Béc-Lin
bức tường đã đổ.
họ cũng như mình,
họ cũng đã từng sai.”
Chúng ta có thể tin rằng bất cứ thế hệ nào của dân tộc Việt Nam cũng có những người không chịu cúi đầu. Vì chúng ta cùng một dòng dõi với nhà Nho Nguyễn Cao đời trước. Bài Tự Phận Ca ông viết trước khi tự sát năm 1887, để nói lên nỗi ân hận không đánh đuổi được quân xâm lăng. Khi bị giặc Pháp bắt, họ dụ dỗ ông hãy chấp nhận chế độ bảo hộ để mời làm quan, ông đã khẳng khái từ chối. Ông đã tự mổ bụng ra cho quan quân Pháp thấy “gan ruột” mình, rồi nói: “Lòng dạ tôi như thế này đây!” Sau đó ông nhịn ăn, không chịu cho họ chữa thương, rồi chết. Nguyễn Cao đã noi gương Nguyễn Tri Phương, Hoàng Diệu. Hoàng Diệu, Nguyễn Tri Phương cũng noi gương Ðặng Dung, Trần Bình Trọng. Ðúng là “Hào kiệt đời nào cũng có.”
Trong bài Tự Phận Ca Nguyễn Cao trước khi chết đã nhớ đến các tấm gương hào kiệt đời xưa: Kiếm núi Sóc (Phù Ðổng Thiên Vương), Câu thơ đọc ở trên không (Lý Thường Kiệt), và cọc nhọn ở sông Bạch Ðằng (Trần Quốc Tuấn) - nguyên văn - Sóc chi kiếm! Không chi thi! Ðằng chi thung!
Không có nhận xét nào: