Ts.Nguyễn Quang Hiệp, VRNs - 26.05.2013: “Lấy truyền thống văn hóa dân tộc làm nền tảng tư tưởng cho việc tổ chức và điều hành xã hội Việt-Nam”.
Câu nói này là NÉT SON của bức thư góp ý. Câu nói này đã nói lên sự đòan kết, sự thông minh sâu săc của HĐ Giám Mục Việt-Nam.
THƯ CỦA HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC VIỆTNAM GỬI ỦY BAN DỰ THẢO SỬA ĐỔI HIẾN-PHÁP NĂM 1992 NHẬN ĐỊNH VÀ GÓP Ý SỬA ĐỔI HIẾN-PHÁP
Trừ đọan mở đầu và đọan kết luận rất ngắn gọn:- đọan mở đầu nói đến lý do nhận định và góp ý trong việc sửa đổi hiến pháp; đọan kết luận ước mong mọi người tích cực góp phần vào việc điều chỉnh hiến pháp – bức thư gồm ba đọạn chính:
Đọan 1: nói về quyền con người. “Quyền con người là những quyền gắn liền với phẩm giá, do đó là những quyền phổ quát, bất khả xâm phạm và bất khả nhượng”. “Quyền con người đã được chính thức nhìn nhận trong Tuyên Ngôn Quốc Tế vế quyền con người (10.12.1948).”
Đọan 2: nói về quyền làm chủ của nhân dân. “Quyền bính chính trị cần thiết để điều hành xã hội, nhưng chủ thể của quyền bính chính trị phải là chính nhân dân xét như một tòan thể trong đất nước”.
Đọan 3: đề cập tới việc thi hành quyền bính chính trị. “ Quyền bính chính trị mà nhân dân trao cho nhà cầm quyền được phân chia thành quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Để những quyền bính này được thi hành cách đúng đắn vàhiệu qủa, cần có sự đôc lập chính đáng của mỗi bên và vì công ích của tòan xã hội”.
Đọc qua thư của HĐ Giám Mục nêu trên,người ta thấy rằng những nhận định và góp ý của HĐ rất tích cực trong việc tạo lập một hiến pháp dân chủ pháp trị thông thường hiện nay.
Hiểu thư của HĐ Giám Mục theo cách hiểu như trên dường như chưa đầy đủ, bởi vì người ta còn chưa đi vào được ý nghĩa sâu sắc của bức thư nhận định và góp ý này. Vậy đâu là ý nghĩa sâu sắc đó?
Chúng tôi cho rằng ý nghĩa sâu sắc đó nằm trong số (2) của đọan 1: “Lấy truyền thống văn hóa dân tộc làm nền tảng tư tưởng cho việc tổ chức và điều hành xã hội Việt-Nam”. Câu nói này có một sức mạnh vô địch vì nó hàm chứa trong đó một chân lý nền tảng của triết học và thần học. Chân lý này 1)ĐÁNH BẠI VÀ TUYỆT DIỆT CHỦ NGHĨA MÁC-LÊ-NIN VÀ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆTNAM; hệ luận của chânlý này là: 2)lọai bỏ mọi ý thức hệ trong việc tổ chức và điều hành xã hội Việt-Nam;3)không chấp nhận bất cứ hình thức hòa hợp hòa giải nào với chủ nghĩa Mác-Lê và cộng sản Viêt-Nam.
I- TUYỆT DIỆT CHỦ NGHĨA MÁC-LÊ VÀ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT-NAM KHÔNG KHOAN NHƯỢNG
Để hiểu chân lý nền tảng này, người ta không thể không trở về thời kỳ Giáo Hội Thiên-Chúa đưa ra những sắc lệnh kết án chủ nghĩa cộng sản vô thần Mác.
Giáo Hội La-Mã, rất sớm, đã đưa ra những lời kết án chủ nghĩa Mác-xít.Đức Giáo Hòang Lêon XIII (1878-1903) đã đưa ra những lời kết án đầu tiên và tổng quát đối với chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản trong sắc lệnh “Quod apostolici mu -neris” (28 decembre 1878). (Acta Apostolicae Sedis, Lêon 13, vol. I, tr. 46).
Đức Giáo Hòang Pie XI (1922-1939) công bố một lọat các sắc lệnh lên án chủ nghĩa Mác-xít; một trong những sắc lệnh quan trọng là sắc lệnh “Divini Redemptoris” ngày 19 tháng 3 năm 1937. (Traduction française publiée aux Editions Spes, Paris, 1937).
Năm 1949, Đức Giáo Hòang Pie XII ban hành săc lệnh của Tòa Thánh thi hành kỷ luật đối với những giáo dân có những hành động nào đó liên hệ với chủ nghĩa cộng sản.
Phần lớn các văn kiện của Giáo Hội và nhất là sắc lệnh “Di –vini Redemptoris” liên hệ đến chủ nghĩa cộng sản đang bành trướng hiện thời. Những sắc lệnh này đương nhiên nhắm vào chủ nghĩa cộng sản của Lê-nin.Nhưng săc lệnh “Divini Redem –ptoris cũng nhắm vào chính lý thuyết của Mác, bởi vì chủ nghĩa cộng sản của Lê-nin chỉ là con đẻ của chủ nghĩa Mác. Những quy luật của DUY VẬT SỬ QUAN do Mác để lại đã được cộng sản Nga duy trì và giải thích một cách trung thực. (Divini Redemptoris, tr. 17).
Giáo Hội giải thích rằng lý thuyết của Mác xác nhận CHỈ CÓ MỘT THỰC TẠI tồn tại, đó là VẬT CHẤT với những sức mạnh MÙ QUÁNG của nó: cây cỏ, động vật, và con người chỉ là kết quả của sự TIẾN HÓA của vật chất (Ibid., tr. 17).Những giải thích của Giáo Hội rất chính xác,bởi vì duy vật biện chứng của Mác cuối cùng thích hợp với một biện chứng về thiên nhiên mà những nét chính đã được nêu rõ ở trên; mặt khác,duy vật biện chứng đích thực nhất không thể nào thóat tránh khỏi duy nhiên và rồi không ngần ngại tuyên bố là duy vật biện chứng này đồng nhất với nhân bản chủ nghĩa.
Người ta cũng dễ dàng nhận ra “Divini Redemptoris” cũng đang đề cập đến quan niệm của chủ nghĩa Mác-xít về xã hội. Sắc Lệnh cho rằng chủ nghĩa Mác-xít đang chủ trương xã hội không là gì khác hơn là một hình thức của VẬT CHẤT TIẾN HÓA theo những định luật của nó; và xã hội đó thiết yếu hướng về tổng hợp cuối cùng, đó là một xã hội vô giai cấp, xuyên qua những cuộc đấu tranh không ngừng của các lực lượng khác nhau (Ibid., tr. 17-18.). Bản văn “Divini Redempto –ris” cũng nói về chủ trương của chủ nghĩa Mác-xít coi XÃ HỘI như là một hiện tượng PHỤ THUỘC CỦA VẬT CHẤT; chủ trương này phù hợp với một ĐỊNH MỆNH THUYẾT VỀ LỊCH SỬ, tuân theo những định luật của thiên nhiên.
Với Giáo Hội, đó là một vô thần chủ nghĩa: đã không còn chỗ đứng cho “Ý tưởng về Thiên-Chúa” (Idée de Dieu).(Ibid., tr. 19). Duy vật lịch sử đối nghịch với quan niệm của Giáo Hội về tinh thần: nó không chấp nhận sự khác biệt giữa vật chất và tinh thần, giữa thân xác và linh hồn. (n’admet pas de different-ce spécifique entre matière et l’esprit, entre le corps et l’âme).(Ibid., tr. 19). Giáo Hội cũng cho thấy chủ nghĩa Mác-xít chối bỏ sự khác biệt giữa vật chất và tinh thần, bởi vì thực sự chủ nghĩa ấy đã không thấy được sự khác biệt nào nơi vận động biện chứng của thiên nhiên. Cuối cùng thì chủ nghĩa Mác-xít đã không chấp nhận sự hiện hữu của linh hồn và chối bỏ niềm hy vọng vào đời sống khác.
Qua những phê phán và kết án chủ nghĩa Mác-Lê-nin của Giáo Hội La-Mã trong các Sắc Lệnh, nhất là săc lệnh “Divini Redemptoris”, người ta thấy Giáo Hội muốn dậy cho những người Mác-xít biết rằng: nơi con người chúng ta có hai thực thể khác biệt nhau: một thực thể là vật chất và một thực thể khác là tinh thần. Đây chính là chân lý nền tảng mà chúng tôi muốn nói tới ở trên.
Đúng thế, người ta không thể chối bỏ sự khác biệt giữa vật chất và tinh thần, giữa thân xác và linh hồn. Chính vì Mác không chấp nhận thực thể tinh thấn, trái lại chỉ đề cao vai trò của thực thể vật chất nơi con người, nên hệ thống triết học của Mác sụp đổ.
Những giáo huấn của Giáo Hội rất phù hợp với bản chất của con người, nên đã được lý trí con người chấp nhận. Sự phân biệt hai thực thể vật chất và tinh thần nơi con người đã là nền tảng cho những suy tư của triết học của các triết gia.
Lịch sử triết học Tây Phương đã là những minh chứng cho chân lý nền tảng này của Giáo Hội. Mới hơn cả với hiện tượng học của Husserl và Heidegger chẳng hạn, thì vấn đề phân biệt thực thể tinh thần và thực thể vật chất nơi con người càng trở nên rõ rệt. Con người, nếu chỉ với thân xác của mình (thực thể vật chất), không thể có tri thức về thế giới, về sự vật; cái làm cho con người tri thức được vật thể, đó là cái thuộc thực thể tinh thần: đó là lý trí, đó là hữu thể của triết học Tây Phương. Ngày nay, cái làm cho con người tri thức sự vật chính là Hữu-Thể như Heidegger đã chứng tỏ.
Vấn đề phân biệt thực thể vật chất và thực thể tinh thần nơi con người không phải chỉ ở Tây Phương, mà ngay cả ở Đông Phương chúng ta cũng có sự phân biệt đó. Cái mà Tây Phương gọi là Hữu-Thể, thì Đông Phương chúng ta gọi là ĐẠO. Điều này chính Heidegger đã xác nhận khi ông so sánh Hữu-Thể với từ ngữ Tạo của Lão-Tử. Thực ra từ ngữ TAO và ĐẠO chỉ là một, bởi vì chúng nói lên cùng một ý nghĩa là Hữu-Thể của Tây Phương.Người Tầu dùng tiếng TAO, còn Việt-Nam chúng ta dùng tiếng ĐẠO để nói về Hữu-Thể.
Với quan niệm của Tây Phương, con người tri thức sự vật là nhờ sự soi sáng của Hữu-Thể. Với Đông Phương chúng ta, con người biết sự vật là nhờ ánh sáng của ĐẠO.
Dân tộc Việt-Nam gọi ĐẠO đó là thế giới sống của họ. Thế giới này là thế giới vô cùng rộng lớn bao gồm Trời, Đất, Thần Thánh và Con Người. Dân tộc ta là dân tộc thông minh không thua kém bất cứ dân tộc nào trên thế giới. Dân tộc ta đặc biệt có tinh thần TỰ DO và TỰ CHỦ rất cao.
Với thế giới sống tự do, cởi mở, với tinh thần tự do, tự chủ, cộng với những trí tuệ thông minh của dân tộc, cha ông chúng ta đã lập một quốc gia riêng biệt hơn 4000 năm.Cha ông chúng ta sống hài hòa với nhau, nuôi dậy con cháu bảo vệ tổ tiên, bảo vệ giang sơn để bảo đảm tự do và độc lập dân tộc.
Với trí thông minh và tinh thần tự do truyền thống, dân tộc ta đã tạo ra một lịch sử vẻ vang cho dân tộc. Cha ông chúng ta cũng đã tạo được một nền văn học, nghệ thuật riêng biệt, đồng thời có một ngôn ngữ riêng theo cách suy tư riêng của dân tộc.
Nhưng điểm độc đáo riêng của dân tộc là chúng ta có một thế giới sống cởi mở, sẵn sang đón nhận những cái hay cái đẹp của người khác. Chúng ta biết đón nhận những tư tưởng cao đẹp, phong phú của Khổng Mạnh, Lão; chúng ta cũng tiếp thu lòng từ bi hỉ xả của Đạo Phật.Khi Thiên Chúa Giáo được giảng dậy ở Việt Nam, tâm tình Đạo của người dân Việt như những mảnh đất phì nhiêu đón nhận những hạt giống tin mừng của Thiên Chúa.
Cho nên HĐ Giám Mục Việt-Nam đồng lòng tuyên bố như sau: “Lấy truyền thống văn hóa dân tộc làm nền tảng tư tưởng cho việc tổ chức và điều hành xã hội Việt-Nam”. Câu nói này là NÉT SON của bức thư góp ý.Câu nói này đã nói lên sự đòan kết, sự thông minh sâu săc của HĐ Giám Mục Việt-Nam.
Câu nói này là một bạt tai vào mặt đảng cộng sản Việt-Nam hiện hành. Cái tát tai này giống như cái tát tai của cố Giám Mục đáng kính Lê-Hữu-Từ thẳng thắn chống lại Hồ-Chí-Minh Đúng vậy, họ Hô là tên đồ tể bán nước, hại dân, đã du nhập một ý thức hệ ác độc và rât sai lầm vào Việt-Nam. Thực ra ông đâu có đủ trình độ để hiểu triết học Mác. Do đó làm gì có cái gọi là tư tưởng Hồ-Chi-Minh. Bọn cộng sản đàn em họ Hồ như Trường-Chinh, Phạm-Văn-Đồng cũng chỉ lấy tài liệu sai lầm ở Nga đem về học: duy vật biện chứng của Mác đã bị hiểu sai lạc từ Engels, rồi Lê-nin, Stalin. Ngay bọn cộng sản Việt-Nam hiện thời cũng chẳng còn hiểu lý thuyết công sản là gì.
Theo Mác, kinh tế là nền tảng, là hạ tầng kiến trúc, khi kinh tế thay đổi thì thượng tấng kiến trúc tất yếu phải thay đổi. Nay kinh tế cộng sản trở thành kinh tế tư bản, nhưng cộng sản Việt Nam vẫn duy trì cơ chế thương tầng của cộng sản. Bất kỳ cộng sản lấy lý do gì để bào chữa,thì chúng cũng không gột rửa sạch được cái lý do ngu dốt không hiểu cộng sản.
Đảng cộng sản Việt Nam đã gây ra chiến tranh huynh đệ tương tàn, tiêu hao hàng triệu thanh niên ưu tú của đất nước. Độc ác nhất là cộng sản gây thù địch, thù hận trong lòng dân tộc. Chúng thà đi khúm núm với bọn Tầu nhưng lại để cho chính người Việt bị hải tặc hãm hiếp, giết chết ngòai biển khơi. Hàng triệu người vượt biên chết trên rừng, ngòai biển, chúng im hơi lặng tiếng như không nhìn thấy.
Cái giỏi cái hay của bọn cộng sản Việt-Nam từ Hồ-Chí-Minh đến nay là bán nước là đi vay nợ. Vay nợ càng nhiều mà không trả được thì khó tránh một cuộc chiến mất nước vớiTầu.
Nhìn thấy quốc gia bị điều hành bởi một ý thức hệ sai lầm là một việc vô cùng nguy hiểm.Kinh nghiệm về ý thức hệ cộng sản và nhìn thấy sự thất bại của các quốc gia bi thống trị bởi ý thức hệ trong lịch sử nhân loại, HĐ Giám Mục nhắc nhở dân tộc của mình là: hãy “Lấy truyền thống văn hóa dân tộc làm nền tảng tư tưởng cho việc tổ chức và điều hành xã hội Việt-Nam”. Điều nhắc nhở này rất đúng, rất khôn ngoan, bởi vì đứng về mặt tư tưởng để nói, thì bất cứ ý thức hệ nào hay chủ nghĩa nào cũng đều bất tòan hay chỉ nói lên MỘT KHÍA CẠNH CỦA THỰC TẠI MÀ THÔI.
Chính con đường ĐẠO học của dân tộc mới là cao siêu vượt trên mọi ý thức hệ. Tại sao? Con người, nhât là con người Việt-Nam luôn luôn yêu chuộng tự do,bởi vì đó là bản chất của con người. Với Heidegger thì tự do là nền tảng của siêu việt tính nơi con người. Với siêu việt tính, con người mở thông lộ đi vào Hữu-Thể, nghĩa là đi vào ĐẠO, nghe tiếng gọi của Hữu –Thể, trả lời cho Hữu-Thể, cư ngụ trong vùng tự do của Hữu-Thể và rồi canh giữ chân lý Hữu-Thể. Như vậy tìm về bản chất của con người là tìm về chân lý Hữu-Thể. Đó cũng là con đường ĐẠO HỌC của dân tộc. Nơi ĐẠO đó chúng ta thấy được chân lý, thấy được tự do, sự công chính, sự yêu thương nơi ta và nơi tha nhân, chúng ta cũng thấy được lòng từ bi hỉ xả của con người, chúng ta hiểu được cái gì là nhân, lễ, nghĩa, trí, tín, và cảm được sự huyền bí, an vui của ĐẠO.
Nói tóm lại, đời sống đạo là đời sống tốt đẹp cho mỗi người và cho mọi người trong dân tộc Việt-Nam. Đời sống ĐẠO đó cao siêu và vượt qua mọi ý thức hệ, dù ý thức hệ được hiểu theo nghĩa xấu hay nghĩa tốt. Ý thức hệ cộng sản thực sự đã tan rã, dù cộng sản Việt-Nam cố bám víu lấy những cơ chế rỗng tuếch của chúng không còn nội dung.
II- NẾU ĐỜI SỐNG ĐẠO LÀ NỀN TẢNG CỦA NỀN VĂN HÓA DÂN TỘC, THÌ NÓ CŨNG PHẢI LÀ NỀN TẢNG CHO VIỆC TỔ CHỨC VÀ ĐIỀU HÀNH XÃ HỘI VIỆT-NAM
Từ khi cách mạng cộng sản của Lê-nin thành công tại Liên-Sô và ý thức hệ Mác-xít được áp dụng tại nước này, thì các quốc gia theo thể chế dân chủ hay quân chủ cũng bị bó buộc ở vào thế phòng bị, bởi vì Lê-nin đã nhanh chóng bành trướng chủ nghĩa Mác-xít qua các nước lân bang. Cách cai trị quốc gia bằng một học thuyết rõ rệt có hệ thống xuyên qua các cuộc đấu tranh giai cấp gay gắt đẫm máu quả là một chiêu thức mới trong chính trị. Các nhà chính trị hay các đảng phái chính trị trong các quốc gia bối rối không biết làm sao đối phó những họat động chính trị được lý thuyết triết học, kinh tế…,chính trị, khoa học hậu thuẫn.
Trường hợp Việt Nam là một thí dụ điển hình.Sau khi Thực dân Pháp chiếm trọn Việt-Nam 1884, đặt bộ máy cai trị của Pháp trên tòan lãnh thổ, thì từ lúc đó, các lãnh tụ của các đảng phái chỉ có chung một đối tượng là thực dân Pháp và có chung một mục đích là giải phóng quê hương khỏi tay ngọai bang cai trị. Nhưng cho tới năm 1927 thì tình hình chính trị các đảng phái ở Việt-Nam bất đầu biến chuyển.
Năm1927 Nguyễn-Ái-Quốc cầm đầu cuộc nổi dậy tại Nghệ An, nhưng thất bại. Sau đó ông ta thành lập Đảng Lao Động, cũng gọi là đảng cộng sản, lấy chủ thuyết Mác-Lê-nin làm nguyên tắc tổ chức xã hội. Đảng cộng sản bắt đầu họat động, sau khi đã được tổ chức thực chặt chẽ và sắt máu.
Sau khi Pháp đầu hang Nhật tại Đông Dương, Nhật trao chủ quyền quốc gia lại cho Việt-Nam.Bảo Đại giao cho TrầnTrọng -Kim thành lập chính phủ đầu tiên của nước Việt-Nam độc lập theo chính thể quân chủ lập hiến.
Nhưng không bao lâu, Nhật đầu hang Đồng Minh vô điều kiện, Việt-Nam Cách Mệnh Đồng-Minh-Hội, gọi tắt là Việt-Minh đảo chính: Hồ-Chí-Minh nắm quyền hành. Trong chính phủ Việt-Minh lúc đó có Nguyễn-Hải-Thần tham dự với chức phó chủ tich; Hùynh-Thúc-Kháng làm Bộ Trưởng Bộ Nội Vụ; Nguyễn-Tường-Tam làm Bộ Trưởng Bộ Ngọai Giao.
Nhưng không bao lâu Nguyễn-Hải-Thần sang Trung-Hoa vì thấy các lãnh tụ quốc gia chống lại Việt-Minh. Hùynh-Thúc-Kháng tham dự chính phủ Việt-Minh được một năm thì chết. Nguyễn-Tường-Tam thì bỏ trốn sang Trung Hoa không bao lâu.
Vào những năm 1946-1949, có nhiều những cuộc ám sát, thủ tiêu. Những người bị ám sát thủ tiêu hay mất tích là những lãnh tụ của các đảng phái quốc gia. Nói như vậy người ta rất dễ hiểu thủ phạm là ai. Nhượng-Tống bị ám sát chính trị năm 1949.Trương-Tử-Anh bị mất tích ở Hà-Đông năm 1946. Phạm–Qùynh bị thủ tiêu tại Huế năm 1945. Tạ-Thu-Thâu bị giết tại Quảng-Ngãi năm 1946.
Trước tình hình chính trị còn lại độc đảng như vậy, các lãnh tụ của các đảng phái còn lại hay các lãnh tụ của các đảng phái mới thường xuyên bị ám ảnh bởi chiêu thức chính trị của cộng sản. Người ta thường nghĩ rằng nếu muốn chống lại cộng sản, cần phải nghĩ ra được một chiêu thức chính trị mới có thể phá giải chiêu thức chính trị của cộng sản. Muốn có chiêu thức chính trị mới này, người ta cần đưa ra một lý thuyết kinh tế chính trị mới, một học thuyết triết học mới.., nghĩa là phải nghĩ ra một ý thức hệ mới.
Thời kỳ chia đôi đất nước sau 1954, chính phủ của Tổng Thống Diệm cũng đã xử dụng học thuyết Nhân Vị để chống lại chủ nghĩa vô thần và vô nhân của cộng sản. Ngày nay, ngay cả các đảng phái người Việt chống cộng tại hải ngọai cũng còn ấp ủ trong lòng ý tưởng thiết lập một ý thức hệ chống cộng.
Chúng ta chỉ cần theo con đường ĐẠO HỌC của dân tộc là đầy đủ, mà không cần phải theo bất cứ ý thức hệ hay chủ nghĩa nào, vì tất cả mọi chủ nghĩa hay ý thức hệ đều bất tòan, bởi vì chúng chỉ là một cái nhìn thiếu sót về thế giới, về thực tại.
Chúng ta biết rằng tự do xuất hữu ra đó hướng về chân lý ĐẠO đó là bản chất của con người. Làm chính trị là vì BẢN CHẤT TỰ DO của con người chứ không phải vì ý thức hệ hay vì chủ nghĩa nào. Làm chính trị là làm sao tạo môi trường tốt nhất cho tự do con người xuất lộ và nẩy nở. Tự do là lý tưởng, siêu việt trên mọi ý thức hệ và mọi chủ nghĩa. Xin hãy bỏ ý định nghĩ ra hay tìm kiếm cho ra một ý thức hệ hay một chủ nghĩa nào khác thay thế cho chủ nghĩa Mác-xít đã tan rã.
Có lẽ giải pháp tốt đẹp nhất chính là đề nghị của HĐ Giám Mục Việt-Nam: “LẤY TRUYỀN THỐNG VĂN HÓA DÂN TỘC LÀM NỀN TẢNG TƯ TƯỞNG CHO VIỆC TỔ CHỨC VÀ ĐIỀU HÀNH XÃ HỘI VIỆT-NAM”.
Một hệ luận khác được rút ra từ chân lý nền tảng trên đây của HĐ Giám Mục Việt-Nam là chúng ta không thể chấp nhận vấn đề hòa hợp hay hòa giải với chủ nghĩa cộng sản.
III- KHÔNG CÓ HÒA HỢP HAY HÒA GIẢI VỚI CHỦ NGHĨA CỘNG SẢN
Chúng tôi đương nhiên có những lý do vững chắc để có thể quả quyết rằng chúng ta không nên hòa hợp hay hòa giải với cộng sản.
Trước khi nói đến những lý do khiến không nên hòa giải và hòa hợp với cộng sản, chúng tôi chỉ muốn nhắc nhở một điều mà binh thư thường nói: “tri bỉ tri kỷ bách chiến bách thắng”. Nếu muốn trăm trận trăm thắng thì phải biết người biết mình trước đã.
Nếu người ta điểm mặt một số những người trong một vài đảng phái chống cộng hải ngọai và một số những ông tiến sĩ, luật sư, bác sĩ, tự đứng ra giao du với Việt Cộng để hòa hợp, hòa giải với chúng, thì chúng ta phải nghi ngờ ngay là những người này có thực sự am hiểu lý thuyết và tổ chức xã hội của cộng sản hay không? Chúng tôi dùng từ ngữ am hiểu ở đây với ý nghĩa là sự hiểu biết ấy đã được thử thách qua đời sống thực tiễn bao gồm lý thuyết và thực hành. Các ông muốn hòa hợp hòa giải, nhưng các ông đã từng học triết học của Mác, kinh tế chính trị, triết lý chính trị… của Mác chưa và học được bao nhiêu năm? Ở quốc nội, người ta không hòa hợp hòa giải với cộng sản, các ông ở hải ngọai, với tư cách gì mà dám đứng ra giao du hòa hợp với hòa giải với cộng sản.
Những triết gia lớn như Hegel, Marx, Huserl…họ là những thiên tài. Những người dậy triết học Hegel, Marx hàng mấy chục năm cũng chưa dám nói là mình hiểu Hegel, Marx. Như vậy có phải các ông là những thiên tài không cần học cũng hiểu các thiên tài như Hegel, Marx.
Xin các ngài chủ trương hòa hợp hòa giải hãy trở về với môn học chuyên môn của mình, đừng tự đứng ra múa may quay cuồng nhằm kiếm chút canh cặn cơm thừa của cộng sản. Các ngài tưởng có thể kiếm chút địa vị sau này. Xin lỗi cộng sản chúng chỉ coi các ngài như những con chó ghẻ ngồi dưới chân bàn ăn của chúng. Xin đừng chơi với lửa. Trotski và Stal-ine là hai đệ tử mà Lê-nin ưa thích. Trotski là người sáng lập và chỉ huy 18 đạo Hồng Quân Liên-Sô cũng bị Staline đưa đi đầy bằng cách dẫn độ đẩy ra khỏi biên giới Liên-Sô, chỉ vì bị cái tội không hiểu biện chứng duy vật. Trotski sang trú ngụ tại Mexico, Staline cho người qua Mexico giết chết Trotski bằng búa.
Chúng tôi muốn đưa ra những lý do tại sao chúng ta không thể hòa hợp và hòa giải với cộng sản Việt-Nam bao lâu chúng còn duy trì lý thuyết Mác-Lê-nin và bám chặt lấy các cơ chế tỏ chức xã hội của chúng. Những lý do này là những lý do chúng tôi đã học được từ những sắc lệnh của Giáo Hội LaMã và cũng học được từ Bức Thư góp ý của HĐ Giám Mục Việt-Nam.
Chúng tôi tin tưởng vào Giáo Hội của Chúa, trong đó có HĐ Giám Mục Việt-Nam. Trong Giáo Hội của Chúa có biết bao Thiên Tài luôn bảo vệ Giáo Hội. Chúa Thánh Linh luôn họat động trong Giáo Hội, soi sang và hướng dẫn Giáo Hội. Karl Marx chỉ là hạt cát đem so với các thiên tài của Giáo Hội.
Cộng Sản Việt-Nam chỉ giỏi liếm gót giầy Tầu Cộng và giết hại đồng bào của mình.
Chúng tôi chỉ nhắc lại đây những lý do chính tại sao chúng ta không hòa giải và hòa hợp với cộng sản.
Theo Sắc Lệnh “Divini Redemptoris” 1937 do Đức Giáo Hòang Pie XI, thì sai lầm to lớn nhât là Duy Vật thuyết của Mác. Duy vật sử quan của Mác chỉ công nhận thực thể vật chất và chối bỏ thực thể tinh thần. Con người và xã hội con người chỉ là kết quả của sự tiến hóa của vật chất. Đây là vô thần chủ nghĩa,vì nó không có chỗ đứng cho”Ý tưởng về Thiên Chúa”. Nó không chấp nhận sự khác biệt giữa vật chất và tinh thần, giữa thân xác và linh hồn. Như vậy, tự bản chất, cộng sản chủ nghĩa là phản tôn giáo.
“Divini Redemptoris” cũng lên án chủ thuyết “cách mạng bạo tàn” (révolution violente) là cái phát sinh từ “khía cạnh biện chứng của duy vật chủ nghĩa” của những người cộng sản (l’aspect dialectique du matérialisme); đồng thời những người cộng sản đã biến việc đấu tranh giai câp thành một nguyên tắc hành động (un principe d’action).
Sắc lệnh cũng xác nhận rằng chủ nghĩa cộng sản “đã tước đọat mất quyền tự do nơi con người, nguyên tắc tinh thần hướng dẫn luân lý” (dépouille l’homme de sa liberté, principe spirituelle de la conduite morale).
Chủ nghĩa cộng sản không nhìn nhận nơi cá nhân bất cứ quyền tự nhiên nào thuộc về con người, khi đem cá nhân đặt trước tập thể; con người trong chủ nghĩa cộng sản “chỉ là một cơ quan của hệ thống” (n’est plus qu’un rouage du system).
Chủ nghĩa cộng sản không thừa nhận ở cá nhân “bất kỳ quyền tư hữu nào”(aucun droit de propriété) về các tài nguyên thiên nhiên hay về các phương tiện sản xuất”.
Cuối cùng Sắc lệnh lên án “CHUYÊN CHÍNH VÔ SẢN” (DICTATURE DU PROLÉTARIAT): một chế độ bạo lực được biện giải bởi chỉ mục đích của mình, khiến cho QUYỀN LỰC CHÍNH TRỊ CỦA CHẾ ĐỘ KHÔNG THỂ ĐƯỢC THỪA NHẬN.
Lá thư góp ý của HĐ Giám Mục Việt-Nam là một bản văn cực lực lên án chế độ bạo tàn vô luân lý đạo đức. Bản văn triệt để chống chủ nghĩa vô thần cộng sản. Bản văn cũng triệt để chống chủ nghĩa phi nhân cộng sản bởi vì nó tước đọat những quyền phổ quát, bất khả xâm phạm và bất khả nhượng đã được nhìn nhận trongTuyên ngôn quốc tế về quyền con người.Chính vì duy vật, nên cộng sản coi con người chỉ là một thứ sinh vật.
Chủ nghĩa vô thần và phi nhân là một hình thức chối bỏ bản chất con người, bởi vì con người chỉ là con người thực sự khi nó tự do vượt quá bản thân để tiếp thông với Đấng cao cả,đứng trong chân lý. Bản văn cũng đòi quyền làm chủ đất nước của nhân dân và quyền thi hành quyền bính chính trị.
Tóm lại Sắc Lệnh “Divini Redemptoris” và lá thư góp ý của HĐ Giám Mục Việt-Nam cùng một chủ trương hòan tòan chối bỏ sự hiện hữu của chủ nghĩa Mác-Lê-nin trong xã hội con người. Điều đó có nghĩa là chủ nghĩa cộng sản Mác-Lê-nin phải bị giải thể. Lý thuyết và cơ chế tổ chức của đảng cộng sản này phải bị hủy bỏ, chứ không phải chỉ thay đổi tên đảng là đủ. Các nước như cộng sản Đông Âu chẳng hạn nay không còn theo lý thuyết hay tổ chức cộng sản.
Có thể có những vị không theo Thiên Chúa Giáo cho rằng chúng tôi chủ quan khi chúng tôi dùng những bằng chứng được rút ra từ Giáo quyền La-Mã, bởi vì Giáo Quyền La-Mã Không bao gồm mọi người trên thế giới trong đó.
Thực ra chúng tôi không chủ quan trong vấn đề này là vì các bản Sắc Lênh “Divini Redemptoris” và thư “Góp Ý” của HĐ Giám Mục Việt-Nam không chỉ bảo vệ đức tin của các tín hữu Ki-Tô Giáo mà còn bảo vệ bản chất của con người nói chung. Chẳng hạn thư “Góp Ý” của HĐ Giám Mục Việt-Nam đòi quyền con người là đòi hỏi cho mọi người Việt-Nam chứ không phải chỉ cho giáo dân công giáo Việt Nam.Thí dụ: tự do tôn giáo cho mọi người, tự do báo chí cho mọi người…
Một trong những điểm ưu tư của những người chống cộng sản ở Việt Nam, nhất là các nhà chính trị và những lãnh tụ của các đảng phái chính trị không cộng sản yêu nước, là sau khi đã hủy trừ đảng cộng sản người ta phải theo đường lối lý thuyết nào để xây dựng đất nước? Chúng tôi cho rằng đề nghị gợi ý của HĐ Giám Mục: “Lấy truyền thống văn hóa dân tộc làm nền tảng tư tưởng cho việc tổ chức và điều hành xã hội Việt-Nam” là tốt nhất.
Chúng tôi cho rằng câu trả lời này là một câu trả lời hợp lý nhất, sâu sắc nhất, cao siêu nhất phù hợp với bản chất sống ĐẠO của người Việt-Nam. Truyền thống ĐẠO HỌC của dân tộc Việt-Nam siêu việt trên các ý thức hệ hiện tại và có thể có sau này.
Chúng ta đã đứng trong quan điểm của những người chống cộng sản để nói về những người chủ trương hòa hợp và hòa giải với cộng sản, nhưng chúng ta chưa đứng trong quan điểm của những người cộng sản để nhìn những kẻ muốn hòa hợp và hòa giải với chúng.
Muốn hiểu cách đối xử của cộng sản đối với những người muốn hợp tác với chúng, có lẽ cách hay nhất là xem lại ý niệm về vong thân và thâu hồi vong thân trong biện chứng pháp duy vật của chúng.
Một cách tổng quát, Mác hiểu ý niệm vong thân (Ẻntfremd-ung) như sau: vong thân là trạng thái của một hữu-thể đã ngọai phóng sự hữu riêng tư của mình thành một hữu thể khác, và bị ảo tưởng coi hữu thể đó như hòan tòan khác với mình, tức là vừa xa lạ, vừa đối địch với mình. Thí dụ: người thợ làm ra sản phẩm (ngọai phóng mình vào sản phẩm), nhưng chủ lấy nó đi làm của riêng, người thợ bị vong thân vì sản phẩm của y trở thành xa lạ và đối địch với y. Mác nói rằng cộng sản phải giải phóng con người khỏi vong thân.
Nhưng chúng ta cần nhớ rằng, Mác khác với Hegel khi Mác quan niệm rằng vong thân là cái không thể thu hồi được và triệt để phá bỏ hay hủy diệt. Thí dụ: vong thân tôn giáo không thể thu hồi mà phải hủy diệt; vì vậy mọi tôn giáo đều phải bị hủy diệt.
Thế rồi bằng con đường biện chứng duy vật Mác giải phóng con người khỏi các vong thân để tiến lên đạt được chính mình trong sự hòa hợp với nhiên giới và nhân giới. Con người đạt được chính mình là con người đạt thân hay con người cộng sản.
Trong tiến trình biện chứng đi lên hòa hợp với nhiên giới và nhân giới, những gì đứng ngòai con người, cản trở việc đi lên tổng hợp của con người đều bị thanh tóan hay hủy diệt.
Như vậy mấy người múa mỏ quay cuồng muốn hòa hợp và hòa giải với cộng sản, có hai trường hợp xẩy ra cho những người này: một là các anh phải trở thành cộng sản, hai là các anh phải bị thanh tóan, vì các anh chỉ là kỳ đà cản mũi.
Tiến sĩ NGUYỄN QUANG HIỆP, Triết học
Câu nói này là NÉT SON của bức thư góp ý. Câu nói này đã nói lên sự đòan kết, sự thông minh sâu săc của HĐ Giám Mục Việt-Nam.
THƯ CỦA HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC VIỆTNAM GỬI ỦY BAN DỰ THẢO SỬA ĐỔI HIẾN-PHÁP NĂM 1992 NHẬN ĐỊNH VÀ GÓP Ý SỬA ĐỔI HIẾN-PHÁP
Trừ đọan mở đầu và đọan kết luận rất ngắn gọn:- đọan mở đầu nói đến lý do nhận định và góp ý trong việc sửa đổi hiến pháp; đọan kết luận ước mong mọi người tích cực góp phần vào việc điều chỉnh hiến pháp – bức thư gồm ba đọạn chính:
Đọan 1: nói về quyền con người. “Quyền con người là những quyền gắn liền với phẩm giá, do đó là những quyền phổ quát, bất khả xâm phạm và bất khả nhượng”. “Quyền con người đã được chính thức nhìn nhận trong Tuyên Ngôn Quốc Tế vế quyền con người (10.12.1948).”
Đọan 2: nói về quyền làm chủ của nhân dân. “Quyền bính chính trị cần thiết để điều hành xã hội, nhưng chủ thể của quyền bính chính trị phải là chính nhân dân xét như một tòan thể trong đất nước”.
Đọan 3: đề cập tới việc thi hành quyền bính chính trị. “ Quyền bính chính trị mà nhân dân trao cho nhà cầm quyền được phân chia thành quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Để những quyền bính này được thi hành cách đúng đắn vàhiệu qủa, cần có sự đôc lập chính đáng của mỗi bên và vì công ích của tòan xã hội”.
Đọc qua thư của HĐ Giám Mục nêu trên,người ta thấy rằng những nhận định và góp ý của HĐ rất tích cực trong việc tạo lập một hiến pháp dân chủ pháp trị thông thường hiện nay.
Hiểu thư của HĐ Giám Mục theo cách hiểu như trên dường như chưa đầy đủ, bởi vì người ta còn chưa đi vào được ý nghĩa sâu sắc của bức thư nhận định và góp ý này. Vậy đâu là ý nghĩa sâu sắc đó?
Chúng tôi cho rằng ý nghĩa sâu sắc đó nằm trong số (2) của đọan 1: “Lấy truyền thống văn hóa dân tộc làm nền tảng tư tưởng cho việc tổ chức và điều hành xã hội Việt-Nam”. Câu nói này có một sức mạnh vô địch vì nó hàm chứa trong đó một chân lý nền tảng của triết học và thần học. Chân lý này 1)ĐÁNH BẠI VÀ TUYỆT DIỆT CHỦ NGHĨA MÁC-LÊ-NIN VÀ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆTNAM; hệ luận của chânlý này là: 2)lọai bỏ mọi ý thức hệ trong việc tổ chức và điều hành xã hội Việt-Nam;3)không chấp nhận bất cứ hình thức hòa hợp hòa giải nào với chủ nghĩa Mác-Lê và cộng sản Viêt-Nam.
I- TUYỆT DIỆT CHỦ NGHĨA MÁC-LÊ VÀ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT-NAM KHÔNG KHOAN NHƯỢNG
Để hiểu chân lý nền tảng này, người ta không thể không trở về thời kỳ Giáo Hội Thiên-Chúa đưa ra những sắc lệnh kết án chủ nghĩa cộng sản vô thần Mác.
Giáo Hội La-Mã, rất sớm, đã đưa ra những lời kết án chủ nghĩa Mác-xít.Đức Giáo Hòang Lêon XIII (1878-1903) đã đưa ra những lời kết án đầu tiên và tổng quát đối với chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản trong sắc lệnh “Quod apostolici mu -neris” (28 decembre 1878). (Acta Apostolicae Sedis, Lêon 13, vol. I, tr. 46).
Đức Giáo Hòang Pie XI (1922-1939) công bố một lọat các sắc lệnh lên án chủ nghĩa Mác-xít; một trong những sắc lệnh quan trọng là sắc lệnh “Divini Redemptoris” ngày 19 tháng 3 năm 1937. (Traduction française publiée aux Editions Spes, Paris, 1937).
Năm 1949, Đức Giáo Hòang Pie XII ban hành săc lệnh của Tòa Thánh thi hành kỷ luật đối với những giáo dân có những hành động nào đó liên hệ với chủ nghĩa cộng sản.
Phần lớn các văn kiện của Giáo Hội và nhất là sắc lệnh “Di –vini Redemptoris” liên hệ đến chủ nghĩa cộng sản đang bành trướng hiện thời. Những sắc lệnh này đương nhiên nhắm vào chủ nghĩa cộng sản của Lê-nin.Nhưng săc lệnh “Divini Redem –ptoris cũng nhắm vào chính lý thuyết của Mác, bởi vì chủ nghĩa cộng sản của Lê-nin chỉ là con đẻ của chủ nghĩa Mác. Những quy luật của DUY VẬT SỬ QUAN do Mác để lại đã được cộng sản Nga duy trì và giải thích một cách trung thực. (Divini Redemptoris, tr. 17).
Giáo Hội giải thích rằng lý thuyết của Mác xác nhận CHỈ CÓ MỘT THỰC TẠI tồn tại, đó là VẬT CHẤT với những sức mạnh MÙ QUÁNG của nó: cây cỏ, động vật, và con người chỉ là kết quả của sự TIẾN HÓA của vật chất (Ibid., tr. 17).Những giải thích của Giáo Hội rất chính xác,bởi vì duy vật biện chứng của Mác cuối cùng thích hợp với một biện chứng về thiên nhiên mà những nét chính đã được nêu rõ ở trên; mặt khác,duy vật biện chứng đích thực nhất không thể nào thóat tránh khỏi duy nhiên và rồi không ngần ngại tuyên bố là duy vật biện chứng này đồng nhất với nhân bản chủ nghĩa.
Người ta cũng dễ dàng nhận ra “Divini Redemptoris” cũng đang đề cập đến quan niệm của chủ nghĩa Mác-xít về xã hội. Sắc Lệnh cho rằng chủ nghĩa Mác-xít đang chủ trương xã hội không là gì khác hơn là một hình thức của VẬT CHẤT TIẾN HÓA theo những định luật của nó; và xã hội đó thiết yếu hướng về tổng hợp cuối cùng, đó là một xã hội vô giai cấp, xuyên qua những cuộc đấu tranh không ngừng của các lực lượng khác nhau (Ibid., tr. 17-18.). Bản văn “Divini Redempto –ris” cũng nói về chủ trương của chủ nghĩa Mác-xít coi XÃ HỘI như là một hiện tượng PHỤ THUỘC CỦA VẬT CHẤT; chủ trương này phù hợp với một ĐỊNH MỆNH THUYẾT VỀ LỊCH SỬ, tuân theo những định luật của thiên nhiên.
Với Giáo Hội, đó là một vô thần chủ nghĩa: đã không còn chỗ đứng cho “Ý tưởng về Thiên-Chúa” (Idée de Dieu).(Ibid., tr. 19). Duy vật lịch sử đối nghịch với quan niệm của Giáo Hội về tinh thần: nó không chấp nhận sự khác biệt giữa vật chất và tinh thần, giữa thân xác và linh hồn. (n’admet pas de different-ce spécifique entre matière et l’esprit, entre le corps et l’âme).(Ibid., tr. 19). Giáo Hội cũng cho thấy chủ nghĩa Mác-xít chối bỏ sự khác biệt giữa vật chất và tinh thần, bởi vì thực sự chủ nghĩa ấy đã không thấy được sự khác biệt nào nơi vận động biện chứng của thiên nhiên. Cuối cùng thì chủ nghĩa Mác-xít đã không chấp nhận sự hiện hữu của linh hồn và chối bỏ niềm hy vọng vào đời sống khác.
Qua những phê phán và kết án chủ nghĩa Mác-Lê-nin của Giáo Hội La-Mã trong các Sắc Lệnh, nhất là săc lệnh “Divini Redemptoris”, người ta thấy Giáo Hội muốn dậy cho những người Mác-xít biết rằng: nơi con người chúng ta có hai thực thể khác biệt nhau: một thực thể là vật chất và một thực thể khác là tinh thần. Đây chính là chân lý nền tảng mà chúng tôi muốn nói tới ở trên.
Đúng thế, người ta không thể chối bỏ sự khác biệt giữa vật chất và tinh thần, giữa thân xác và linh hồn. Chính vì Mác không chấp nhận thực thể tinh thấn, trái lại chỉ đề cao vai trò của thực thể vật chất nơi con người, nên hệ thống triết học của Mác sụp đổ.
Những giáo huấn của Giáo Hội rất phù hợp với bản chất của con người, nên đã được lý trí con người chấp nhận. Sự phân biệt hai thực thể vật chất và tinh thần nơi con người đã là nền tảng cho những suy tư của triết học của các triết gia.
Lịch sử triết học Tây Phương đã là những minh chứng cho chân lý nền tảng này của Giáo Hội. Mới hơn cả với hiện tượng học của Husserl và Heidegger chẳng hạn, thì vấn đề phân biệt thực thể tinh thần và thực thể vật chất nơi con người càng trở nên rõ rệt. Con người, nếu chỉ với thân xác của mình (thực thể vật chất), không thể có tri thức về thế giới, về sự vật; cái làm cho con người tri thức được vật thể, đó là cái thuộc thực thể tinh thần: đó là lý trí, đó là hữu thể của triết học Tây Phương. Ngày nay, cái làm cho con người tri thức sự vật chính là Hữu-Thể như Heidegger đã chứng tỏ.
Vấn đề phân biệt thực thể vật chất và thực thể tinh thần nơi con người không phải chỉ ở Tây Phương, mà ngay cả ở Đông Phương chúng ta cũng có sự phân biệt đó. Cái mà Tây Phương gọi là Hữu-Thể, thì Đông Phương chúng ta gọi là ĐẠO. Điều này chính Heidegger đã xác nhận khi ông so sánh Hữu-Thể với từ ngữ Tạo của Lão-Tử. Thực ra từ ngữ TAO và ĐẠO chỉ là một, bởi vì chúng nói lên cùng một ý nghĩa là Hữu-Thể của Tây Phương.Người Tầu dùng tiếng TAO, còn Việt-Nam chúng ta dùng tiếng ĐẠO để nói về Hữu-Thể.
Với quan niệm của Tây Phương, con người tri thức sự vật là nhờ sự soi sáng của Hữu-Thể. Với Đông Phương chúng ta, con người biết sự vật là nhờ ánh sáng của ĐẠO.
Dân tộc Việt-Nam gọi ĐẠO đó là thế giới sống của họ. Thế giới này là thế giới vô cùng rộng lớn bao gồm Trời, Đất, Thần Thánh và Con Người. Dân tộc ta là dân tộc thông minh không thua kém bất cứ dân tộc nào trên thế giới. Dân tộc ta đặc biệt có tinh thần TỰ DO và TỰ CHỦ rất cao.
Với thế giới sống tự do, cởi mở, với tinh thần tự do, tự chủ, cộng với những trí tuệ thông minh của dân tộc, cha ông chúng ta đã lập một quốc gia riêng biệt hơn 4000 năm.Cha ông chúng ta sống hài hòa với nhau, nuôi dậy con cháu bảo vệ tổ tiên, bảo vệ giang sơn để bảo đảm tự do và độc lập dân tộc.
Với trí thông minh và tinh thần tự do truyền thống, dân tộc ta đã tạo ra một lịch sử vẻ vang cho dân tộc. Cha ông chúng ta cũng đã tạo được một nền văn học, nghệ thuật riêng biệt, đồng thời có một ngôn ngữ riêng theo cách suy tư riêng của dân tộc.
Nhưng điểm độc đáo riêng của dân tộc là chúng ta có một thế giới sống cởi mở, sẵn sang đón nhận những cái hay cái đẹp của người khác. Chúng ta biết đón nhận những tư tưởng cao đẹp, phong phú của Khổng Mạnh, Lão; chúng ta cũng tiếp thu lòng từ bi hỉ xả của Đạo Phật.Khi Thiên Chúa Giáo được giảng dậy ở Việt Nam, tâm tình Đạo của người dân Việt như những mảnh đất phì nhiêu đón nhận những hạt giống tin mừng của Thiên Chúa.
Cho nên HĐ Giám Mục Việt-Nam đồng lòng tuyên bố như sau: “Lấy truyền thống văn hóa dân tộc làm nền tảng tư tưởng cho việc tổ chức và điều hành xã hội Việt-Nam”. Câu nói này là NÉT SON của bức thư góp ý.Câu nói này đã nói lên sự đòan kết, sự thông minh sâu săc của HĐ Giám Mục Việt-Nam.
Câu nói này là một bạt tai vào mặt đảng cộng sản Việt-Nam hiện hành. Cái tát tai này giống như cái tát tai của cố Giám Mục đáng kính Lê-Hữu-Từ thẳng thắn chống lại Hồ-Chí-Minh Đúng vậy, họ Hô là tên đồ tể bán nước, hại dân, đã du nhập một ý thức hệ ác độc và rât sai lầm vào Việt-Nam. Thực ra ông đâu có đủ trình độ để hiểu triết học Mác. Do đó làm gì có cái gọi là tư tưởng Hồ-Chi-Minh. Bọn cộng sản đàn em họ Hồ như Trường-Chinh, Phạm-Văn-Đồng cũng chỉ lấy tài liệu sai lầm ở Nga đem về học: duy vật biện chứng của Mác đã bị hiểu sai lạc từ Engels, rồi Lê-nin, Stalin. Ngay bọn cộng sản Việt-Nam hiện thời cũng chẳng còn hiểu lý thuyết công sản là gì.
Theo Mác, kinh tế là nền tảng, là hạ tầng kiến trúc, khi kinh tế thay đổi thì thượng tấng kiến trúc tất yếu phải thay đổi. Nay kinh tế cộng sản trở thành kinh tế tư bản, nhưng cộng sản Việt Nam vẫn duy trì cơ chế thương tầng của cộng sản. Bất kỳ cộng sản lấy lý do gì để bào chữa,thì chúng cũng không gột rửa sạch được cái lý do ngu dốt không hiểu cộng sản.
Đảng cộng sản Việt Nam đã gây ra chiến tranh huynh đệ tương tàn, tiêu hao hàng triệu thanh niên ưu tú của đất nước. Độc ác nhất là cộng sản gây thù địch, thù hận trong lòng dân tộc. Chúng thà đi khúm núm với bọn Tầu nhưng lại để cho chính người Việt bị hải tặc hãm hiếp, giết chết ngòai biển khơi. Hàng triệu người vượt biên chết trên rừng, ngòai biển, chúng im hơi lặng tiếng như không nhìn thấy.
Cái giỏi cái hay của bọn cộng sản Việt-Nam từ Hồ-Chí-Minh đến nay là bán nước là đi vay nợ. Vay nợ càng nhiều mà không trả được thì khó tránh một cuộc chiến mất nước vớiTầu.
Nhìn thấy quốc gia bị điều hành bởi một ý thức hệ sai lầm là một việc vô cùng nguy hiểm.Kinh nghiệm về ý thức hệ cộng sản và nhìn thấy sự thất bại của các quốc gia bi thống trị bởi ý thức hệ trong lịch sử nhân loại, HĐ Giám Mục nhắc nhở dân tộc của mình là: hãy “Lấy truyền thống văn hóa dân tộc làm nền tảng tư tưởng cho việc tổ chức và điều hành xã hội Việt-Nam”. Điều nhắc nhở này rất đúng, rất khôn ngoan, bởi vì đứng về mặt tư tưởng để nói, thì bất cứ ý thức hệ nào hay chủ nghĩa nào cũng đều bất tòan hay chỉ nói lên MỘT KHÍA CẠNH CỦA THỰC TẠI MÀ THÔI.
Chính con đường ĐẠO học của dân tộc mới là cao siêu vượt trên mọi ý thức hệ. Tại sao? Con người, nhât là con người Việt-Nam luôn luôn yêu chuộng tự do,bởi vì đó là bản chất của con người. Với Heidegger thì tự do là nền tảng của siêu việt tính nơi con người. Với siêu việt tính, con người mở thông lộ đi vào Hữu-Thể, nghĩa là đi vào ĐẠO, nghe tiếng gọi của Hữu –Thể, trả lời cho Hữu-Thể, cư ngụ trong vùng tự do của Hữu-Thể và rồi canh giữ chân lý Hữu-Thể. Như vậy tìm về bản chất của con người là tìm về chân lý Hữu-Thể. Đó cũng là con đường ĐẠO HỌC của dân tộc. Nơi ĐẠO đó chúng ta thấy được chân lý, thấy được tự do, sự công chính, sự yêu thương nơi ta và nơi tha nhân, chúng ta cũng thấy được lòng từ bi hỉ xả của con người, chúng ta hiểu được cái gì là nhân, lễ, nghĩa, trí, tín, và cảm được sự huyền bí, an vui của ĐẠO.
Nói tóm lại, đời sống đạo là đời sống tốt đẹp cho mỗi người và cho mọi người trong dân tộc Việt-Nam. Đời sống ĐẠO đó cao siêu và vượt qua mọi ý thức hệ, dù ý thức hệ được hiểu theo nghĩa xấu hay nghĩa tốt. Ý thức hệ cộng sản thực sự đã tan rã, dù cộng sản Việt-Nam cố bám víu lấy những cơ chế rỗng tuếch của chúng không còn nội dung.
II- NẾU ĐỜI SỐNG ĐẠO LÀ NỀN TẢNG CỦA NỀN VĂN HÓA DÂN TỘC, THÌ NÓ CŨNG PHẢI LÀ NỀN TẢNG CHO VIỆC TỔ CHỨC VÀ ĐIỀU HÀNH XÃ HỘI VIỆT-NAM
Từ khi cách mạng cộng sản của Lê-nin thành công tại Liên-Sô và ý thức hệ Mác-xít được áp dụng tại nước này, thì các quốc gia theo thể chế dân chủ hay quân chủ cũng bị bó buộc ở vào thế phòng bị, bởi vì Lê-nin đã nhanh chóng bành trướng chủ nghĩa Mác-xít qua các nước lân bang. Cách cai trị quốc gia bằng một học thuyết rõ rệt có hệ thống xuyên qua các cuộc đấu tranh giai cấp gay gắt đẫm máu quả là một chiêu thức mới trong chính trị. Các nhà chính trị hay các đảng phái chính trị trong các quốc gia bối rối không biết làm sao đối phó những họat động chính trị được lý thuyết triết học, kinh tế…,chính trị, khoa học hậu thuẫn.
Trường hợp Việt Nam là một thí dụ điển hình.Sau khi Thực dân Pháp chiếm trọn Việt-Nam 1884, đặt bộ máy cai trị của Pháp trên tòan lãnh thổ, thì từ lúc đó, các lãnh tụ của các đảng phái chỉ có chung một đối tượng là thực dân Pháp và có chung một mục đích là giải phóng quê hương khỏi tay ngọai bang cai trị. Nhưng cho tới năm 1927 thì tình hình chính trị các đảng phái ở Việt-Nam bất đầu biến chuyển.
Năm1927 Nguyễn-Ái-Quốc cầm đầu cuộc nổi dậy tại Nghệ An, nhưng thất bại. Sau đó ông ta thành lập Đảng Lao Động, cũng gọi là đảng cộng sản, lấy chủ thuyết Mác-Lê-nin làm nguyên tắc tổ chức xã hội. Đảng cộng sản bắt đầu họat động, sau khi đã được tổ chức thực chặt chẽ và sắt máu.
Sau khi Pháp đầu hang Nhật tại Đông Dương, Nhật trao chủ quyền quốc gia lại cho Việt-Nam.Bảo Đại giao cho TrầnTrọng -Kim thành lập chính phủ đầu tiên của nước Việt-Nam độc lập theo chính thể quân chủ lập hiến.
Nhưng không bao lâu, Nhật đầu hang Đồng Minh vô điều kiện, Việt-Nam Cách Mệnh Đồng-Minh-Hội, gọi tắt là Việt-Minh đảo chính: Hồ-Chí-Minh nắm quyền hành. Trong chính phủ Việt-Minh lúc đó có Nguyễn-Hải-Thần tham dự với chức phó chủ tich; Hùynh-Thúc-Kháng làm Bộ Trưởng Bộ Nội Vụ; Nguyễn-Tường-Tam làm Bộ Trưởng Bộ Ngọai Giao.
Nhưng không bao lâu Nguyễn-Hải-Thần sang Trung-Hoa vì thấy các lãnh tụ quốc gia chống lại Việt-Minh. Hùynh-Thúc-Kháng tham dự chính phủ Việt-Minh được một năm thì chết. Nguyễn-Tường-Tam thì bỏ trốn sang Trung Hoa không bao lâu.
Vào những năm 1946-1949, có nhiều những cuộc ám sát, thủ tiêu. Những người bị ám sát thủ tiêu hay mất tích là những lãnh tụ của các đảng phái quốc gia. Nói như vậy người ta rất dễ hiểu thủ phạm là ai. Nhượng-Tống bị ám sát chính trị năm 1949.Trương-Tử-Anh bị mất tích ở Hà-Đông năm 1946. Phạm–Qùynh bị thủ tiêu tại Huế năm 1945. Tạ-Thu-Thâu bị giết tại Quảng-Ngãi năm 1946.
Trước tình hình chính trị còn lại độc đảng như vậy, các lãnh tụ của các đảng phái còn lại hay các lãnh tụ của các đảng phái mới thường xuyên bị ám ảnh bởi chiêu thức chính trị của cộng sản. Người ta thường nghĩ rằng nếu muốn chống lại cộng sản, cần phải nghĩ ra được một chiêu thức chính trị mới có thể phá giải chiêu thức chính trị của cộng sản. Muốn có chiêu thức chính trị mới này, người ta cần đưa ra một lý thuyết kinh tế chính trị mới, một học thuyết triết học mới.., nghĩa là phải nghĩ ra một ý thức hệ mới.
Thời kỳ chia đôi đất nước sau 1954, chính phủ của Tổng Thống Diệm cũng đã xử dụng học thuyết Nhân Vị để chống lại chủ nghĩa vô thần và vô nhân của cộng sản. Ngày nay, ngay cả các đảng phái người Việt chống cộng tại hải ngọai cũng còn ấp ủ trong lòng ý tưởng thiết lập một ý thức hệ chống cộng.
Chúng ta chỉ cần theo con đường ĐẠO HỌC của dân tộc là đầy đủ, mà không cần phải theo bất cứ ý thức hệ hay chủ nghĩa nào, vì tất cả mọi chủ nghĩa hay ý thức hệ đều bất tòan, bởi vì chúng chỉ là một cái nhìn thiếu sót về thế giới, về thực tại.
Chúng ta biết rằng tự do xuất hữu ra đó hướng về chân lý ĐẠO đó là bản chất của con người. Làm chính trị là vì BẢN CHẤT TỰ DO của con người chứ không phải vì ý thức hệ hay vì chủ nghĩa nào. Làm chính trị là làm sao tạo môi trường tốt nhất cho tự do con người xuất lộ và nẩy nở. Tự do là lý tưởng, siêu việt trên mọi ý thức hệ và mọi chủ nghĩa. Xin hãy bỏ ý định nghĩ ra hay tìm kiếm cho ra một ý thức hệ hay một chủ nghĩa nào khác thay thế cho chủ nghĩa Mác-xít đã tan rã.
Có lẽ giải pháp tốt đẹp nhất chính là đề nghị của HĐ Giám Mục Việt-Nam: “LẤY TRUYỀN THỐNG VĂN HÓA DÂN TỘC LÀM NỀN TẢNG TƯ TƯỞNG CHO VIỆC TỔ CHỨC VÀ ĐIỀU HÀNH XÃ HỘI VIỆT-NAM”.
Một hệ luận khác được rút ra từ chân lý nền tảng trên đây của HĐ Giám Mục Việt-Nam là chúng ta không thể chấp nhận vấn đề hòa hợp hay hòa giải với chủ nghĩa cộng sản.
III- KHÔNG CÓ HÒA HỢP HAY HÒA GIẢI VỚI CHỦ NGHĨA CỘNG SẢN
Chúng tôi đương nhiên có những lý do vững chắc để có thể quả quyết rằng chúng ta không nên hòa hợp hay hòa giải với cộng sản.
Trước khi nói đến những lý do khiến không nên hòa giải và hòa hợp với cộng sản, chúng tôi chỉ muốn nhắc nhở một điều mà binh thư thường nói: “tri bỉ tri kỷ bách chiến bách thắng”. Nếu muốn trăm trận trăm thắng thì phải biết người biết mình trước đã.
Nếu người ta điểm mặt một số những người trong một vài đảng phái chống cộng hải ngọai và một số những ông tiến sĩ, luật sư, bác sĩ, tự đứng ra giao du với Việt Cộng để hòa hợp, hòa giải với chúng, thì chúng ta phải nghi ngờ ngay là những người này có thực sự am hiểu lý thuyết và tổ chức xã hội của cộng sản hay không? Chúng tôi dùng từ ngữ am hiểu ở đây với ý nghĩa là sự hiểu biết ấy đã được thử thách qua đời sống thực tiễn bao gồm lý thuyết và thực hành. Các ông muốn hòa hợp hòa giải, nhưng các ông đã từng học triết học của Mác, kinh tế chính trị, triết lý chính trị… của Mác chưa và học được bao nhiêu năm? Ở quốc nội, người ta không hòa hợp hòa giải với cộng sản, các ông ở hải ngọai, với tư cách gì mà dám đứng ra giao du hòa hợp với hòa giải với cộng sản.
Những triết gia lớn như Hegel, Marx, Huserl…họ là những thiên tài. Những người dậy triết học Hegel, Marx hàng mấy chục năm cũng chưa dám nói là mình hiểu Hegel, Marx. Như vậy có phải các ông là những thiên tài không cần học cũng hiểu các thiên tài như Hegel, Marx.
Xin các ngài chủ trương hòa hợp hòa giải hãy trở về với môn học chuyên môn của mình, đừng tự đứng ra múa may quay cuồng nhằm kiếm chút canh cặn cơm thừa của cộng sản. Các ngài tưởng có thể kiếm chút địa vị sau này. Xin lỗi cộng sản chúng chỉ coi các ngài như những con chó ghẻ ngồi dưới chân bàn ăn của chúng. Xin đừng chơi với lửa. Trotski và Stal-ine là hai đệ tử mà Lê-nin ưa thích. Trotski là người sáng lập và chỉ huy 18 đạo Hồng Quân Liên-Sô cũng bị Staline đưa đi đầy bằng cách dẫn độ đẩy ra khỏi biên giới Liên-Sô, chỉ vì bị cái tội không hiểu biện chứng duy vật. Trotski sang trú ngụ tại Mexico, Staline cho người qua Mexico giết chết Trotski bằng búa.
Chúng tôi muốn đưa ra những lý do tại sao chúng ta không thể hòa hợp và hòa giải với cộng sản Việt-Nam bao lâu chúng còn duy trì lý thuyết Mác-Lê-nin và bám chặt lấy các cơ chế tỏ chức xã hội của chúng. Những lý do này là những lý do chúng tôi đã học được từ những sắc lệnh của Giáo Hội LaMã và cũng học được từ Bức Thư góp ý của HĐ Giám Mục Việt-Nam.
Chúng tôi tin tưởng vào Giáo Hội của Chúa, trong đó có HĐ Giám Mục Việt-Nam. Trong Giáo Hội của Chúa có biết bao Thiên Tài luôn bảo vệ Giáo Hội. Chúa Thánh Linh luôn họat động trong Giáo Hội, soi sang và hướng dẫn Giáo Hội. Karl Marx chỉ là hạt cát đem so với các thiên tài của Giáo Hội.
Cộng Sản Việt-Nam chỉ giỏi liếm gót giầy Tầu Cộng và giết hại đồng bào của mình.
Chúng tôi chỉ nhắc lại đây những lý do chính tại sao chúng ta không hòa giải và hòa hợp với cộng sản.
Theo Sắc Lệnh “Divini Redemptoris” 1937 do Đức Giáo Hòang Pie XI, thì sai lầm to lớn nhât là Duy Vật thuyết của Mác. Duy vật sử quan của Mác chỉ công nhận thực thể vật chất và chối bỏ thực thể tinh thần. Con người và xã hội con người chỉ là kết quả của sự tiến hóa của vật chất. Đây là vô thần chủ nghĩa,vì nó không có chỗ đứng cho”Ý tưởng về Thiên Chúa”. Nó không chấp nhận sự khác biệt giữa vật chất và tinh thần, giữa thân xác và linh hồn. Như vậy, tự bản chất, cộng sản chủ nghĩa là phản tôn giáo.
“Divini Redemptoris” cũng lên án chủ thuyết “cách mạng bạo tàn” (révolution violente) là cái phát sinh từ “khía cạnh biện chứng của duy vật chủ nghĩa” của những người cộng sản (l’aspect dialectique du matérialisme); đồng thời những người cộng sản đã biến việc đấu tranh giai câp thành một nguyên tắc hành động (un principe d’action).
Sắc lệnh cũng xác nhận rằng chủ nghĩa cộng sản “đã tước đọat mất quyền tự do nơi con người, nguyên tắc tinh thần hướng dẫn luân lý” (dépouille l’homme de sa liberté, principe spirituelle de la conduite morale).
Chủ nghĩa cộng sản không nhìn nhận nơi cá nhân bất cứ quyền tự nhiên nào thuộc về con người, khi đem cá nhân đặt trước tập thể; con người trong chủ nghĩa cộng sản “chỉ là một cơ quan của hệ thống” (n’est plus qu’un rouage du system).
Chủ nghĩa cộng sản không thừa nhận ở cá nhân “bất kỳ quyền tư hữu nào”(aucun droit de propriété) về các tài nguyên thiên nhiên hay về các phương tiện sản xuất”.
Cuối cùng Sắc lệnh lên án “CHUYÊN CHÍNH VÔ SẢN” (DICTATURE DU PROLÉTARIAT): một chế độ bạo lực được biện giải bởi chỉ mục đích của mình, khiến cho QUYỀN LỰC CHÍNH TRỊ CỦA CHẾ ĐỘ KHÔNG THỂ ĐƯỢC THỪA NHẬN.
Lá thư góp ý của HĐ Giám Mục Việt-Nam là một bản văn cực lực lên án chế độ bạo tàn vô luân lý đạo đức. Bản văn triệt để chống chủ nghĩa vô thần cộng sản. Bản văn cũng triệt để chống chủ nghĩa phi nhân cộng sản bởi vì nó tước đọat những quyền phổ quát, bất khả xâm phạm và bất khả nhượng đã được nhìn nhận trongTuyên ngôn quốc tế về quyền con người.Chính vì duy vật, nên cộng sản coi con người chỉ là một thứ sinh vật.
Chủ nghĩa vô thần và phi nhân là một hình thức chối bỏ bản chất con người, bởi vì con người chỉ là con người thực sự khi nó tự do vượt quá bản thân để tiếp thông với Đấng cao cả,đứng trong chân lý. Bản văn cũng đòi quyền làm chủ đất nước của nhân dân và quyền thi hành quyền bính chính trị.
Tóm lại Sắc Lệnh “Divini Redemptoris” và lá thư góp ý của HĐ Giám Mục Việt-Nam cùng một chủ trương hòan tòan chối bỏ sự hiện hữu của chủ nghĩa Mác-Lê-nin trong xã hội con người. Điều đó có nghĩa là chủ nghĩa cộng sản Mác-Lê-nin phải bị giải thể. Lý thuyết và cơ chế tổ chức của đảng cộng sản này phải bị hủy bỏ, chứ không phải chỉ thay đổi tên đảng là đủ. Các nước như cộng sản Đông Âu chẳng hạn nay không còn theo lý thuyết hay tổ chức cộng sản.
Có thể có những vị không theo Thiên Chúa Giáo cho rằng chúng tôi chủ quan khi chúng tôi dùng những bằng chứng được rút ra từ Giáo quyền La-Mã, bởi vì Giáo Quyền La-Mã Không bao gồm mọi người trên thế giới trong đó.
Thực ra chúng tôi không chủ quan trong vấn đề này là vì các bản Sắc Lênh “Divini Redemptoris” và thư “Góp Ý” của HĐ Giám Mục Việt-Nam không chỉ bảo vệ đức tin của các tín hữu Ki-Tô Giáo mà còn bảo vệ bản chất của con người nói chung. Chẳng hạn thư “Góp Ý” của HĐ Giám Mục Việt-Nam đòi quyền con người là đòi hỏi cho mọi người Việt-Nam chứ không phải chỉ cho giáo dân công giáo Việt Nam.Thí dụ: tự do tôn giáo cho mọi người, tự do báo chí cho mọi người…
Một trong những điểm ưu tư của những người chống cộng sản ở Việt Nam, nhất là các nhà chính trị và những lãnh tụ của các đảng phái chính trị không cộng sản yêu nước, là sau khi đã hủy trừ đảng cộng sản người ta phải theo đường lối lý thuyết nào để xây dựng đất nước? Chúng tôi cho rằng đề nghị gợi ý của HĐ Giám Mục: “Lấy truyền thống văn hóa dân tộc làm nền tảng tư tưởng cho việc tổ chức và điều hành xã hội Việt-Nam” là tốt nhất.
Chúng tôi cho rằng câu trả lời này là một câu trả lời hợp lý nhất, sâu sắc nhất, cao siêu nhất phù hợp với bản chất sống ĐẠO của người Việt-Nam. Truyền thống ĐẠO HỌC của dân tộc Việt-Nam siêu việt trên các ý thức hệ hiện tại và có thể có sau này.
Chúng ta đã đứng trong quan điểm của những người chống cộng sản để nói về những người chủ trương hòa hợp và hòa giải với cộng sản, nhưng chúng ta chưa đứng trong quan điểm của những người cộng sản để nhìn những kẻ muốn hòa hợp và hòa giải với chúng.
Muốn hiểu cách đối xử của cộng sản đối với những người muốn hợp tác với chúng, có lẽ cách hay nhất là xem lại ý niệm về vong thân và thâu hồi vong thân trong biện chứng pháp duy vật của chúng.
Một cách tổng quát, Mác hiểu ý niệm vong thân (Ẻntfremd-ung) như sau: vong thân là trạng thái của một hữu-thể đã ngọai phóng sự hữu riêng tư của mình thành một hữu thể khác, và bị ảo tưởng coi hữu thể đó như hòan tòan khác với mình, tức là vừa xa lạ, vừa đối địch với mình. Thí dụ: người thợ làm ra sản phẩm (ngọai phóng mình vào sản phẩm), nhưng chủ lấy nó đi làm của riêng, người thợ bị vong thân vì sản phẩm của y trở thành xa lạ và đối địch với y. Mác nói rằng cộng sản phải giải phóng con người khỏi vong thân.
Nhưng chúng ta cần nhớ rằng, Mác khác với Hegel khi Mác quan niệm rằng vong thân là cái không thể thu hồi được và triệt để phá bỏ hay hủy diệt. Thí dụ: vong thân tôn giáo không thể thu hồi mà phải hủy diệt; vì vậy mọi tôn giáo đều phải bị hủy diệt.
Thế rồi bằng con đường biện chứng duy vật Mác giải phóng con người khỏi các vong thân để tiến lên đạt được chính mình trong sự hòa hợp với nhiên giới và nhân giới. Con người đạt được chính mình là con người đạt thân hay con người cộng sản.
Trong tiến trình biện chứng đi lên hòa hợp với nhiên giới và nhân giới, những gì đứng ngòai con người, cản trở việc đi lên tổng hợp của con người đều bị thanh tóan hay hủy diệt.
Như vậy mấy người múa mỏ quay cuồng muốn hòa hợp và hòa giải với cộng sản, có hai trường hợp xẩy ra cho những người này: một là các anh phải trở thành cộng sản, hai là các anh phải bị thanh tóan, vì các anh chỉ là kỳ đà cản mũi.
Tiến sĩ NGUYỄN QUANG HIỆP, Triết học
Không có nhận xét nào: