VRNs (05.10.2013) – Sài Gòn - Nội dung chi tiết cuộc đàm thoại giữa tờ La Repubblica với Đức Thánh Cha Phanxicô về việc cải tổ Giáo hội.
Dưới đây là cuộc đối thoại giữa Đức Thánh Cha Phanxicô và người sáng lập tờ La Repubblica, ông Eugenio Scalfari. “Bắt đầu từ Công đồng Vatican II, đến việc mở cửa cho nền văn hóa hiện đại “, cuộc trò chuyện đã diễn ra tại Vatican sau khi Đức Giáo Hoàng gửi đến La Repubblica một lá thư : “Cải đạo các bạn ư ? Chủ nghĩa tuyên truyền cải đạo (proselytism) chỉ là sự phô trương vô nghĩa. Bạn phải đến để gặp gỡ người ta và lắng nghe họ ? “
Quí vị có thể xem bản gốc tiếng Anh tại trang : http://www.repubblica.it/cultura/2013/10/01/news/pope_s_conversation_with_scalfari_english-67643118/
Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói với tôi rằng : “Tai họa (evils) nghiêm trọng nhất gây ảnh hưởng cho thế giới ngày nay là việc người trẻ thất nghiệp và sự cô đơn của người già. Người già cần sự chăm sóc và tình bạn, [trong khi đó] người trẻ cần thiết phải có công việc và hy vọng, tuy nhiên họ chẳng có cái nọ lẫn cái kia, và vấn đề là thậm chí họ không còn tìm kiếm chúng nữa. Họ bị đè nén bởi hiện tại. Ông thử nói cho tôi xem : ông có thể sống dưới sức ép của hiện tại mà không có ký ức về quá khứ, hay không có khao khát nhìn về phía tương lai bằng cách xây dựng một cái gì đó, [chẳng hạn như] một tương lai, một gia đình ? Ông có thể tiếp tục mãi như thế này chăng ? Đối với tôi, điều này cũng là vấn đề cấp bách nhất mà Giáo Hội đang phải đối mặt.”
Thưa Ngài, tôi có thể nói rằng, đó phần lớn là vấn đề chính trị và kinh tế của các quốc gia, các chính phủ, các đảng phái chính trị, cũng như các tổ chức công đoàn.
“Đúng, ông nói đúng, nhưng nó cũng liên quan đến Giáo Hội, trong thực tế, nó còn đặc biệt [ảnh hưởng] đối với Giáo Hội, vì tình trạng này không chỉ làm tổn thương thể xác mà còn cả linh hồn. Giáo Hội phải cảm thấy có trách nhiệm ở cả phương diện tâm hồn lẫn thể xác.”
Thưa Ngài, ngài nói rằng Giáo Hội phải cảm thấy có trách nhiệm. Tôi có nên kết luận rằng, Giáo Hội đã không nhận thức được vấn đề này và ngài sẽ hướng Giáo hội theo hướng này chứ ?
“Ở mức độ rộng lớn thì [Giáo hội] nhận thức được điều này, nhưng không đầy đủ. Tôi muốn hơn thế nữa. Tuy đó không phải là vấn đề duy nhất mà chúng tôi phải đối mặt, nhưng nó cấp bách và kịch tính nhất”.
Cuộc gặp gỡ với Đức Thánh Cha Phanxicô đã diễn ra vào thứ ba tuần trước tại nơi ở riêng của ngài tại Santa Marta, trong một căn phòng trống nhỏ với một cái bàn và năm hay sáu chiếc ghế, cùng với một bức tranh treo tường. Cuộc gặp gỡ đã được bắt đầu bằng một cú điện thoại mà tôi sẽ không bao giờ quên. Đó là lúc 2 giờ 30 chiều. Chuông điện thoại rung lên và với một giọng hơi run rẩy, vị thư ký đã nói với tôi: “Đức Thánh Cha đang ở đầu dây bên kia đấy. Tôi sẽ nối máy ngay cho ông”.
Tôi vẫn còn choáng váng khi nghe thấy tiếng nói của Đức Thánh Cha ở đầu dây bên kia “Xin chào, tôi là Đức Thánh Cha Phanxicô đây”. Tôi nói “Vâng, xin chào Đức Thánh Cha”. Sau đó tôi nói tiếp, “Tôi thực sự bị sốc. Tôi không mong đợi là ngài sẽ gọi cho tôi”. Ngài nói, “Tại sao lại quá ngạc nhiên thế. Ông đã viết cho tôi một lá thư yêu cầu để đến gặp tôi mà. Tôi cũng có cùng ước muốn ấy, vì vậy tôi đã gọi để sắp xếp một cuộc hẹn. Để tôi coi lại nhật trình của mình nhé: Tôi không thể gặp vào thứ tư hay thứ hai. Thứ ba thì phù hợp với ông chứ?”
Ngài nói tiếp “Thời gian có đôi chút cập rập, nhưng ba giờ chiều đối với ông thì sao ? Nếu không thì một ngày khác vậy.” Tôi trả lời đức Thánh Cha rằng thời gian ấy thì ổn. Ngài nói, “Vậy chúng ta đồng ý với nhau là vào ngày thứ ba, 24 (tháng 9) lúc 3 giờ tại Santa Marta. Ông qua cửa Sant’Uffizio nhé.”
Tôi không biết làm thế nào để kết thúc cuộc gọi này và tôi nói “Tôi có thể ôm hôn ngài qua điện thoại được không ?”.”Tất nhiên rồi, một cái ôm từ tôi nữa. Chúng ta sẽ làm điều đó cho nhau nhé, chào tạm biệt.”
Và tôi đang ở đây. Đức Thánh Cha đến và bắt tay tôi rồi chúng tôi cùng ngồi xuống. Đức Thánh Cha mỉm cười và nói : “Một số đồng sự của tôi đã biết ông, họ nói với tôi rằng ông sẽ cố gắng để cải đạo tôi đấy”
Đó chỉ là câu nói đùa thôi, tôi nói với ngài. Bạn bè của tôi cũng nghĩ rằng, ngài đang muốn cải đạo tôi.
Đức Thánh Cha lại cười và trả lời : “Chủ nghĩa tuyên truyền cải đạo (proselytism) chỉ là sự màu mè vô nghĩa, điều đó không có ý nghĩa gì hết. Chúng ta cần phải tìm cách biết nhau, lắng nghe nhau và nâng cao kiến thức của chúng ta về thế giới xung quanh. Đôi khi sau một gặp gỡ, tôi lại muốn sắp xếp một cuộc gặp gỡ khác vì những ý tưởng mới được phát sinh và tôi phát hiện ra một nhu cầu mới. Điều này rất quan trọng: việc tìm hiểu con người, lắng nghe, và mở rộng những vòng tròn ý tưởng. Thế giới được đan chéo bởi nhiều con đường, thứ [có thể] đến gần nhau hơn hay tách rời nhau, nhưng điều quan trọng chúng dẫn đến Điều Thiện.”
Thưa Ngài, có một tầm nhìn duy nhất về Điều Thiện (good) chăng ? Và ai có thể quyết định nó là gì ?
“Mỗi người chúng ta đều có một tầm nhìn về điều thiện và điều ác. Chúng ta phải khuyến khích mọi người hướng tới những gì mà họ nghĩ là tốt.”
Thưa Ngài, ngài đã viết cho tôi rằng, lương tâm thì tự quản (autonomous), và tất cả mọi người đều phải tuân theo lương tâm của mình. Tôi nghĩ đó là một trong những bước tiến can đảm nhất của Đức Thánh Cha.
“Tôi xin lặp lại ở đây rằng. Mọi người đều có ý tưởng riêng về điều thiện và điều ác, và mọi người phải chọn để theo điều thiện và chống lại điều ác như họ đã hình dung chúng. Điều đó thôi cũng đủ làm cho thế giới tốt đẹp hơn.”
Và Giáo Hội đang làm điều đó ?
“Vâng, đó là mục đích sứ mạng của chúng tôi: xác định các nhu cầu vật chất và phi vật chất của con người và cố gắng đáp ứng khi chúng tôi có thể. Ông có biết agape là gì không ?”
Vâng, tôi biết.
“Đó là lòng yêu thương người khác, như Chúa chúng tôi đã rao giảng. Đó không phải là sự cải đạo, đó là tình yêu. Tình yêu đối với tha nhân là nắm men của việc phục vụ lợi ích chung.”
Yêu người thân cận như chính mình.
“Chính xác là như vậy.”
Đức Giêsu đã rao giảng rằng, yêu thương (agape) người khác là cách duy nhất để yêu mến Thiên Chúa. Hãy sửa nếu tôi nói sai.
“Ông không sai. Con Thiên Chúa đã nhập thể trong linh hồn của con người để thấm dần cảm giác của tình huynh đệ. Rằng tất cả đều là anh em và là con cái của Thiên Chúa, cũng như Đức Giêsu đã gọi Thiên Chúa Cha là Abba. Người còn nói, thầy sẽ chỉ cho anh em con đường. Hãy theo thầy, anh em sẽ tìm thấy Chúa Cha và tất cả anh em sẽ trở nên con cái của Thiên Chúa, ngài cũng sẽ lấy anh em làm niềm vui. Agape là tình yêu mà mỗi người trong chúng ta dành cho người khác, từ những người thân cận nhất đến những người xa lạ nhất. Trong thực tế, đó là cách duy nhất mà Đức Giêsu đã ban cho chúng ta để tìm ra con đường cứu rỗi cùng với Tám Mối Phúc Thật.”
Tuy nhiên như chúng ta đã bàn, Đức Giêsu nói rằng, chúng ta phải yêu tha nhân như chính mình. Vậy thì tính tự ái quá mức (narcissism), cái mà nhiều người công nhận là hợp lệ và tích cực thì sao ? Chúng tôi đã từng bàn rất nhiều về khía cạnh này.
“Tôi không thích từ tự ái quá mức”, Đức Thánh Cha nói, “nó cho thấy một tình yêu quá mức dành cho chính mình và điều này thì không tốt, nó có thể gây ra những thiệt hại nghiêm trọng không chỉ đối với tâm hồn của người bị ảnh hưởng mà còn trong mối quan hệ với người khác, với xã hội mà người đó đang sống. Một vấn đề thực tế là những người có nhiều quyền lực thì hay mắc phải vấn đề này. Đây thực sự là một loại rối loạn tâm thần. Thường thì những ông chủ là những người nhiều tự ái (narcissist)”.
Nhiều vị lãnh đạo giáo hội cũng mắc phải vấn đề này.
“Ông có biết tôi suy nghĩ gì về chuyện này không ? Các vị đứng đầu Giáo Hội thường tự yêu mình, họ cảm thấy hài lòng khi nghe các cộng sự tâng bốc. Triều đình (the court) là căn bệnh phong của triều đại giáo hoàng.”
Căn bệnh phong của triều đại giáo hoàng, đó là nguyên văn của ngài ! Nhưng triều đình là gì ? Ngài đang ám chỉ đến giáo triều chăng?
“Không, đôi khi một số vị trong giáo triều là thế, nhưng toàn thể giáo triều lại là một chuyện khác. Đó là một tổ chức mà trong quân đội có thể gọi phòng hậu cần, nó quản lý các ban ngành phục vụ Tòa Thánh. Nhưng [giáo triều] có một khiếm khuyết, đó là quan điểm coi Vatican là trung tâm. Giáo triều xem xét và tìm kiếm những quyền lợi cho Vatican, mà hầu hết vẫn là các quyền lợi thế tục. Quan điểm xem ‘Vatican là trung tâm’ khiến thế giới xung quanh chúng ta bị bỏ quên. Tôi không chia sẻ quan điểm này và tôi sẽ làm mọi thứ trong khả năng để thay đổi điều này. Giáo Hội hoặc nên trở lại là một cộng đoàn của dân Thiên Chúa. Các mục tử, linh mục và giám mục, những người chăm sóc các linh hồn, cũng phải sẵn sàng để phục vụ dân Chúa. Giáo Hội là như thế, nó khác với Tòa Thánh. Tòa thánh có chức năng quan trọng riêng của nó, để phục vụ Giáo Hội. Tôi sẽ không thể hoàn toàn tin tưởng vào Thiên Chúa và Con của Ngài, nếu tôi không được huấn luyện trong Giáo Hội, và nếu tôi không may mắn sinh ra ở Argentina, trong một cộng đoàn mà nếu thiếu nó, tôi sẽ không thể nhận thức được về bản thân và niềm tin của tôi . “
Ngài đã nghe thấy tiếng gọi từ khi còn trẻ ?
“Không, không trẻ lắm đâu. Gia đình muốn tôi có một nghề nghiệp khác cơ, để làm việc và kiếm tiền. Tôi đã học đại học. Tôi cũng gặp được một giáo viên mà tôi rất kính trọng, tôi đã phát triển một tình bạn thân thiết với người cộng sản nhiệt thành ấy. Bà thường đọc các văn kiện của Đảng Cộng sản cho tôi nghe và còn trao cho tôi đọc nữa. Do vậy, tôi cũng biết khá nhiều về quan niệm duy vật. Tôi nhớ bà ấy cũng đã đưa cho tôi một tuyên bố của Cộng sản Hoa Kỳ để biện hộ cho gia đình Rosenbergs. Những người đã bị kết án tử hình. Người phụ nữ mà tôi đang nói tới sau đó đã bị bắt, bị tra tấn và hành quyết bởi chế độ độc tài cai trị ở Argentina.”
Điểm nào trong chủ nghĩa cộng sản thu hút ngài ?
“Chủ nghĩa duy vật của bà ấy đã không ảnh hưởng đến tôi. Tuy nhiên, việc học biết nó thông qua một con người can đảm và trung thực thì thật là hữu ích. Tôi nhận ra được một vài điều, một khía cạnh của xã hội mà sau đó tôi cũng tìm thấy trong học thuyết xã hội của Giáo Hội.”
Thần học giải phóng, điều mà Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã ra vạ tuyệt thông, đã được phổ biến rộng rãi ở châu Mỹ Latinh.
“Đúng vậy, nhiều thành viên trong đó là người Argentina.”
Ngài có nghĩ rằng Đức Giáo Hoàng đã đúng khi chống lại họ ?
“Chắc chắn trong thần học của họ có cả khía cạnh chính trị, tuy nhiên nhiều người trong số họ là những tín hữu có tư tưởng cao về nhân đạo.”
Thưa Ngài, tôi có thể kể cho ngài một ít về bối cảnh văn hóa của tôi không ? Tôi được nuôi dưỡng bởi một người mẹ Công Giáo nghiêm khắc. Ở tuổi 12, tôi chiến thắng một cuộc thi giáo lý được tổ chức bởi nhiều giáo xứ ở Rôma và tôi được nhận giải thưởng của Giáo phận. Tôi rước lễ vào mỗi thứ sáu đầu tháng, nói cách khác, tôi là một người Công giáo thực hành và là một tín hữu thực thụ. Nhưng mọi thứ đã thay đổi khi tôi bước vào trung học. Tôi nghiền ngẫm những văn bản triết học mà chúng tôi được học. Một câu trong quyển Phương pháp luận của Descartes đã làm tôi ấn tượng, đó là câu “Tôi tư duy nên tôi tồn tại”, và bây giờ nó đã trở thành một biểu tượng. Do đó cá nhân trở thành điều cơ bản cho sự tồn tại của con người, là trung tâm của tư tưởng tự do.
“Tuy vậy, Descartes đã không bao giờ chối bỏ đức tin vào một Thiên Chúa siêu việt”
Điều đó đúng, nhưng ông ấy đã đặt nền móng với một tầm nhìn rất khác, và tôi đã theo lối ấy. Sau này được hỗ trợ bởi những tác phẩm khác mà tôi đã đọc, khiến tôi đến được một vùng trời rất khác.
“Theo những gì mà tôi biết, thì ông là một người vô tín ngưỡng nhưng không bài giáo sĩ. Chúng là hai việc rất khác nhau.”
Đúng, tôi không bài giáo sĩ nhưng tôi trở nên như thế khi tôi gặp một ‘giáo sĩ trị’ (clericalist).
Ngài mỉm cười và nói “Điều đó cũng xảy ra với tôi khi tôi gặp một giáo sĩ trị, tôi đột nhiên trở thành người bài giáo sĩ. Chủ nghĩa giáo sĩ không có liên hệ gì đến Kitô giáo. Thánh Phaolô, người đầu tiên đến với dân ngoại, những người ngoại giáo và các tín hữu thuộc các tôn giáo khác, là người đầu tiên dạy cho chúng ta điều đó. “
Thưa ngài, tôi có thể hỏi ngài về vị thánh nào mà ngài cảm thấy gần gũi nhất trong tâm hồn, người đã uốn nắn nên kinh nghiệm tôn giáo nơi ngài ?
“Thánh Phaolô là người đã đặt nền tảng trong tôn giáo và tín điều của chúng tôi. Ông không thể trở thành một Kitô hữu có ý thức mà không cần đến thánh Phaolô. Ngài đã chuyển dịch lời giảng dạy của Đức Kitô thành một cấu trúc học thuyết, và với sự đóng góp của một số lượng lớn các nhà tư tưởng, nhà thần học và mục tử, nó vẫn tồn tại sau hai ngàn năm. Kế đến là thánh Augustinô, thánh Bênêđíctô, thánh Tôma, thánh Inhaxiô và đương nhiên là thánh Phanxicô. Tôi có cần phải giải thích lý do không nhỉ ?”
Phanxicô, tôi cho phép mình gọi ngài như thế vì chính Đức Thánh Cha đã đề nghị
Điều ấy qua cách nói chuyện, qua cách ngài cười, kèm theo những cảm thán khi ngài bất ngờ hay hiểu ra vấn đề – ngài nhìn tôi như thể muốn khuyến khích tôi đặt nhiều câu hỏi về các vụ bê bối, thậm chí rắc rối hơn cho vị lãnh đạo Giáo Hội. Vì thế, tôi hỏi ngài: ngài đã giải thích về tầm quan trọng và vai trò của thánh Phaolô, nhưng tôi muốn biết đó vị thánh nào mà ngài cảm thấy gần gũi với tâm hồn mình hơn ?
“Ông đang yêu cầu tôi một bảng xếp hạng, nhưng phân loại thì dành cho thể thao hoặc những điều giống như thế. Tôi có thể nói cho ông biết về những cầu thủ bóng đá tốt nhất tại Argentina. Nhưng các thánh thì … “
Người ta nói đùa với kẻ đểu giả, ngài biết câu tục ngữ đó chứ ?
“Chính xác. Nhưng tôi không hề cố gắng tránh né câu hỏi của ông, bởi vì ông đã không hỏi tôi việc xếp hạng tầm quan trọng về mặt văn hóa và tôn giáo của các vị thánh, nhưng ông hỏi vị nào gần gũi nhất với tâm hồn của tôi. Vậy tôi xin trả lời là thánh Augustinô và thánh Phanxicô.”
Chí Thiện, VRNs dịch theo bản tiếng Anh
Không có nhận xét nào: