Ts, Ls Lưu Nguyễn Đạt, Việt Thức - 8.6.2013: Để thấy rõ những liên quan mật thiết giửa người Việt “trong và ngoài” nước, chúng ta hãy xét kỹ hai nguyên tắc và cũng là hai thành tố của cùng một thực thể. Đó là không gian và lương tri Việt.
I. Không Gian Việt
1. Đối với người Việt “trong” nước, Không Gian Việt trước đây là giang sơn, núi rừng, biển đảo, là đất đai nhà cửa, nơi thờ phụng linh thiêng, ruộng vườn và mồ mả ông cha để lại. Tất cả những gì chính đáng phải bảo trọng toàn vẹn, từ mặt pháp lý tới văn hoá, từ văn tự hợp pháp tới văn phong chính trực.
Vậy, cái Không Gian Việt của gần 90 triệu dân trong nước còn hiện hữu, đầy đủ, vẹn toàn hay không?
Không Gian Việt của người Việt trong nước có phải là một tài sản chung của “thổ dân”, của người dân đang sinh sống tại đó? Do dân đứng tên, do dân sở hữu và quản trị?
Hay đối với đa số người Việt trong nước, Không Gian Việt phải chăng chỉ còn là một hiện tượng trống rỗng, tha hoá, như một “nước lạ” mà người trong nước chỉ là kẻ ở đợ, sống ngoài lề xã hội chủ nghĩa hay ngoài vỉa hè của “lãnh thổ”, trên phao nổi của “lãnh hải”, bất bình, bất định, trôi dạt tạm bợ ngay trên “đất nước” ông cha để lại, với mồ hôi nước mắt, với máu mủ truyền thống.
Không Gian của đa số người Việt trong nước chỉ còn là một “không gian ảo”, một mảnh giấy vụn với những sơ đồ địa hạt thất tung, xoá bỏ, với những bằng khoán pháp lý bị khước từ, với những tài liệu chấp hữu giả tạo, man khai, cưỡng ép.
Không Gian Việt của người Việt trong nước thực sự là một không gian vô chủ chính thức, nay trong tay những kẻ chấp hữu bất chính và những tên cướp ngày võ đoán, vô liêm sỉ.
Tuy nhiên về mặt pháp lý và công lý căn bản, đối với đa số người Việt “ở đợ” trong nước, Không Gian Việt đó vẫn là một gia tài bất khả tước đoạt, vẫn là của họ, nên cần truy lùng và đòi lại từ tay kẻ cướp đoạt.
2. Đối với người Việt “ngoài” nước, Không Gian Việt vốn là giang sơn, núi rừng, biển đảo, là đất đai nhà cửa, nơi thờ phụng linh thiêng, ruộng vườn và mồ mả ông cha để lại, với đầy đủ tài liệu chứng minh về mặt pháp lý, văn hoá, truyền thống, liên hệ gia đình.
Đối với họ, Không Gian Việt vẫn là một thực thể không thể bị trao đổi, truyền nhượng ngoài ý muốn của sở hữu chủ chính danh, không thể bị cầm cố, hủy bỏ, hay tước đọat khi họ vắng mặt.
Thử lấy một tỷ dụ dễ hiểu, cận đại: ông NKA, sở hữu chủ một căn nhà, vườn tược tại thành phố San Jose, California. Vì một biến cố nào đó, đương sự đi xa làm việc tại Boston, MA hay vượt biên sinh sống tại Vancouver, Canada. Bỗng dưng có kẻ lạ, hay tên hàng xóm bất lương tới chiếm cứ tài sản, phá cửa ngõ vào chấp hữu toàn diện căn phố, đất đai, cây cối, vườn tược. Rồi vỗ ngực rêu rao làm chủ thực tại “de facto” những của cải cướp đoạt, hay làm giả văn kiện chấp hữu, mua bán trao tay giữa kẻ gian này tới kẻ gian khác [mua lại đồ ăn cắp, tước đoạt].
Có ai vô lý, bất nhân tâm đến độ coi nạn nhân NKA bị tước đoạt tài sản là kẻ “ngoại cuộc”, ngoại lai, vô tư cách khiếu nại, truy sách đòi lại của cải mất mát mà đương sự vẫn đủ bằng khoán tư hữu?!
Vậy có ai bất nhân, bất công cho rằng người tỵ nạn cộng sản Việt Nam [VTNCSVN] nay ở nước ngoài đương nhiên phải mất nhà, mất cửa, phải mất quê hương xứ sở cho lũ cướp ngày, tàn bạo, võ đoán, lũ người thường vỗ ngực “vô sản chuyên chính”, nay lô diện mafia gian lận tư bản đỏ.
Đối với đa số người Việt tỵ nạn CSVN [VTNCSVN] nay cư ngụ nơi đất khách quê người, Không Gian Việt vẫn là một thực thể nguyên vẹn: đa số người VTNCSVN thường nghĩ, thường nói: “tôi không ở đất nước, đất nước ở trong tôi”. Giản dị và trung thực như vậy.
Đối với đa số người VTNCSVN nay cư ngụ nơi đất khách quê người, Không Gian Việt đó tuy vắng chủ chính thức vẫn là một gia tài bất khả tước đoạt, vẫn là của họ, nên cần truy lùng và đòi lại từ tay kẻ cướp đoạt.
Như vậy, đối với toàn dân dù tỵ nạn “trong nước”, hay tỵ nạn “ngoài nước”, Không Gian Việt đó vẫn chỉ là một gia tài bị tước đoạt một cách bất chính, bằng vũ lực, súng ống, hay bằng giấy tờ sang đoạt giả mạo.
Ở khía cạnh pháp lý, truyền thống máu mủ, tâm linh, tình cảm, Không Gian Việt đó vẫn nguyên vẹn của toàn thể hay đa số người Việt chân chính. Không Gian Việt vẫn chờ đợi sự khiếu nại, truy sách, đòi lại của những người sở hữu chủ chân chính, thực sự. Mọi sự chấp hữu bất chính, bằng vũ lực, chuyển tay gian lận, đều vô hiệu, phải hủy bỏ.
Vậy, trong Không Gian Việt toàn diện, toàn cõi này, xin miễn phân chia người Việt “trong và ngoài” nước, vì Không Gian Việt bao gồm cả giang sơn thực thể và giang sơn bị tạm bợ tước đoạt, đang truy sách, đòi lại. Nên gọi họ là người Việt-phương-Tây và người Việt-phương-Đông là chí lý, hợp tình hợp nghĩa hơn cả.
Thật vậy, Không Gian Việt đó chỉ là một, dù đa dạng về mặt địa lý, vị trí, cai quản. Nên không thể phân chia sai lầm – trong nước và ngoài nước — để truất phế, khai trừ người vắng mặt. Không Gian Việt chỉ là một thực thể, mà bất cứ ở khía cạnh nào, bên trái, bên phải, nam bắc, đông tây, vẫn chỉ là một không gian độc nhất. Bất cứ chỗ nào cũng là trọng tâm, trọng điểm của toàn thể Không Gian Việt bất khả chia tách, bất khả tước đoạt. Bất cứ chỗ nào cũng có thể là điểm nóng, là chiến tuyến chống và khai trừ kẻ xâm lăng, kẻ thù chung, dù đó là nội thù tức CSVN hay ngoại thù tức Hán Cộng và bất cứ kẻ láng giềng bất lương, bất hảo nào khác.
Về mặt văn hoá, văn chương, mỹ thuật, kể cả về mặt tình cảm, Không Gian Việt không thể bị giới hạn ở bờ cõi lãnh thổ, lãnh hải, mà còn lan rộng tới những chân trời vô tận. Truyện Kiều, thơ Hồ Xuân Hương, những bài hát dân gian, khi được chuyển ngữ sang Anh văn, Pháp văn sẽ hội nhập kiến thức và tâm hồn của biết bao cộng đồng văn hoá khác trên thế giới đang tìm kiếm, thưởng ngoạn, chọn lựa những giá trị sáng tạo từ nguồn gốc Việt. Đã biết bao nhiêu dịch giả, nhà văn Việt-phương-Tây đang làm công việc khai mở bờ cõi văn hoá, tư tưởng cuả Không Gian Việt ngay trong lòng không gian nhân loại, đa nguyên, đa dạng.
Về mặt chiến lược, ngoại giao và ảnh hưởng nơi tập đoàn thế giới, chúng ta hay nhắc tới thế “nhiệm cách”, đại diện và ảnh hưởng sâu đậm của cộng đồng Do Thái tại các nước Tây phương và nhất là tại Hoa Kỳ. Chắc chăn người Do Thái sẽ không có phương tiện và kỹ thuật thành lập đất nước họ một cách hữu hiệu như vậy, trong thời điểm lịch sử 1948, hay không thể gìn giữ nước Israel cho tới ngày nay nếu không có áp lực và sức chống đỡ chiến lược của người Mỹ gốc Do Thái, hay của người Do Thái đang sinh sống, lập nghiệp tại Hoa Kỳ.
Về mặt quốc tế công pháp, người di dân tại Pháp, Canada, Hoa Kỳ, Úc vẫn có quyền có song tịch [dual citizenship]. Như vậy, người Việt-phương-Tây khi muốn, hay nếu cần, vẫn có quyền coi mình có quốc tịch Việt.
II. Lương Tri Việt
Như xác định phía trên, Không Gian Việt chỉ là một đối với người Việt bất cứ ở đâu, phương Đông và phương Tây. Dù họ có ở những vị trí, bờ cõi khác nhau, những Tiểu Bang, những Nước khác nhau, họ vẫn có cái Không Gian Việt của họ, nếu họ muốn gìn giữ, bảo trọng, nếu thực tâm, họ chưa khước từ, bác bỏ.
Vậy người Việt bất cứ ở đâu, nếu họ muốn, nếu họ chọn, vẫn là người Việt. Do đó, về mặt thuần lý, lương tri của người Việt bất cứ ở đâu, tại phương Đông hay tại phương Tây vẫn chỉ là một khả năng, một cơ hội hiểu biết đứng đắn về sự thật, về những phải trái rõ rệt, mà lịch sử và đời sống chứng tỏ nguyên hình, nguyên trạng.
Sự thật đó, cả nước và hầu như toàn dân, kể cả những đảng viên sáng suốt đều thấy rõ CSVN sai lầm từ lúc sơ khởi cướp nước; CSVN hại dân một cách liên tục, thâm độc, và nhất là không hề biết hối cải, ăn năn dù một lần chân thực.
Vậy trong khi CSVN quyết tâm bám chặt định hướng xã hội chủ nghĩa, tận dụng vị thế siêu quyền lực để củng cố đảng phiệt, độc quyền thao túng thị trường, độc quyền tham nhũng và gây thảm hoạ cho đất nước, cho dân tộc, thì đa số người Việt tỵ nạn cộng sản ở bất cứ đâu, phương Đông hay phương Tây vẫn phải giữ vững lương tri và lập trường — vừa đề cao cảnh giác trước tai ương lịch sử, vừa chuẩn bị cho giai đoạn tái thiết đất nước khi CSVN cáo chung, khi đảng phiệt này tự nổ hay bị giải thể.
Tranh đấu CSVN-Mafia bằng trí giác, bằng lời lẽ minh bạch nêu cao sự thật và đại nghĩa là lương tri chính xác nhất, khi mục đích là chuyển lực và kết sinh bênh vực người dân, bất cứ ở đâu, giúp họ thêm kiến thức, thêm phương tiện và kỹ thuật vượt Cộng, hầu dứt bỏ đời sống tăm tối, để tự tay tạo dựng và duy trì một tương lai tốt đẹp, tử tế, đầy đủ về mặt vật chất lẫn tinh thần.
Người Việt bất cứ ở đâu chỉ nên có một thứ lương tri toàn diện: bảo trọng sự thật, thực hiện quyền sống trọn vẹn, có giá trị cho mình và cho người khác. Đem an sinh và phúc lợi chung cho đa số dân tộc Việt, và nếu có cơ hội, ra tay giúp đỡ nhân loại bất cứ là ai, bất cứ ở đâu, thì càng hay, càng quý.
Do đó, Lương Tri Việt có thể biểu hiện song phương hay đa phương, song ngôn hay qua nhiều tiếng nói xây dựng khác nhau, nhưng cứu cánh vẫn chung một giá trị, một định hướng hợp lý, hợp tình: bảo trọng và phục vụ quyền lợi chung cua dân tộc, của con người.
Lương Tri Việt chân chính không những nhằm chống và vượt Cộng sản khắp nơi, tại phương Đông, lẫn phương Tây, mà còn phải nỗ lực chống và vượt thắng mọi hà tì, sai quấy từ bất cứ thành phần phản nước hại dân nào khác. Mục đích vẫn chỉ là bảo trọng sự thật và phục vụ quyền lợi chung của dân tộc, của con người.
Ai ai cũng thấu hiểu căn nguyên của mọi tai ương, sai quấy, mọi đổ vỡ, khuynh đảo, mọi nhục nhã bất hạnh là do CSVN gây ra, của Cộng sản quốc tế chỉ đạo, đến nỗi cả cựu Tổng Thống Nga Boris-Yeltsin cũng đã từng nói “Cộng Sản không thể nào thay đổi, mà cần phải dẹp bỏ.”
Vậy, nếu lợi dụng tự do ngôn luận, tự do tư tưởng để cổ vũ sai quấy và tội ác của kẻ gian, kẻ trọng tội bất trị, vô phương cứu chữa; để đánh bóng, giúp đỡ hay tiếp hơi một chế độ thống trị bán nước, phản dân như CSVN, thì đó không phải là “tiếng gọi của lương tri”, không phải là một suy tư hay dấn thân chân chính, một chọn lựa tử tế, mà chỉ là một âm mưu hay mắc mưu tham gia hệ thống tội ác.
III. Để Tạm Kết Luận
Người Việt ở bất cứ đâu, vào bất cứ giai đoạn nào, nếu quyết tâm tin tưởng vào công cuộc xây dựng Không Gian và Lương Tri Việt một cách trong sáng, chân chính, vững bền, sẽ có ngày giải thể CSVN và sau đó xây dựng một chính thể của dân, vì dân, bởi dân.
Với điều kiện là người Việt chúng ta ý thức rõ vị thế của mình và tôn trọng mục tiêu lựa chọn.
Trân trọng,
TS-LS Lưu Nguyễn Đạt
I. Không Gian Việt
1. Đối với người Việt “trong” nước, Không Gian Việt trước đây là giang sơn, núi rừng, biển đảo, là đất đai nhà cửa, nơi thờ phụng linh thiêng, ruộng vườn và mồ mả ông cha để lại. Tất cả những gì chính đáng phải bảo trọng toàn vẹn, từ mặt pháp lý tới văn hoá, từ văn tự hợp pháp tới văn phong chính trực.
Vậy, cái Không Gian Việt của gần 90 triệu dân trong nước còn hiện hữu, đầy đủ, vẹn toàn hay không?
Không Gian Việt của người Việt trong nước có phải là một tài sản chung của “thổ dân”, của người dân đang sinh sống tại đó? Do dân đứng tên, do dân sở hữu và quản trị?
Hay đối với đa số người Việt trong nước, Không Gian Việt phải chăng chỉ còn là một hiện tượng trống rỗng, tha hoá, như một “nước lạ” mà người trong nước chỉ là kẻ ở đợ, sống ngoài lề xã hội chủ nghĩa hay ngoài vỉa hè của “lãnh thổ”, trên phao nổi của “lãnh hải”, bất bình, bất định, trôi dạt tạm bợ ngay trên “đất nước” ông cha để lại, với mồ hôi nước mắt, với máu mủ truyền thống.
Không Gian của đa số người Việt trong nước chỉ còn là một “không gian ảo”, một mảnh giấy vụn với những sơ đồ địa hạt thất tung, xoá bỏ, với những bằng khoán pháp lý bị khước từ, với những tài liệu chấp hữu giả tạo, man khai, cưỡng ép.
Không Gian Việt của người Việt trong nước thực sự là một không gian vô chủ chính thức, nay trong tay những kẻ chấp hữu bất chính và những tên cướp ngày võ đoán, vô liêm sỉ.
Tuy nhiên về mặt pháp lý và công lý căn bản, đối với đa số người Việt “ở đợ” trong nước, Không Gian Việt đó vẫn là một gia tài bất khả tước đoạt, vẫn là của họ, nên cần truy lùng và đòi lại từ tay kẻ cướp đoạt.
2. Đối với người Việt “ngoài” nước, Không Gian Việt vốn là giang sơn, núi rừng, biển đảo, là đất đai nhà cửa, nơi thờ phụng linh thiêng, ruộng vườn và mồ mả ông cha để lại, với đầy đủ tài liệu chứng minh về mặt pháp lý, văn hoá, truyền thống, liên hệ gia đình.
Đối với họ, Không Gian Việt vẫn là một thực thể không thể bị trao đổi, truyền nhượng ngoài ý muốn của sở hữu chủ chính danh, không thể bị cầm cố, hủy bỏ, hay tước đọat khi họ vắng mặt.
Thử lấy một tỷ dụ dễ hiểu, cận đại: ông NKA, sở hữu chủ một căn nhà, vườn tược tại thành phố San Jose, California. Vì một biến cố nào đó, đương sự đi xa làm việc tại Boston, MA hay vượt biên sinh sống tại Vancouver, Canada. Bỗng dưng có kẻ lạ, hay tên hàng xóm bất lương tới chiếm cứ tài sản, phá cửa ngõ vào chấp hữu toàn diện căn phố, đất đai, cây cối, vườn tược. Rồi vỗ ngực rêu rao làm chủ thực tại “de facto” những của cải cướp đoạt, hay làm giả văn kiện chấp hữu, mua bán trao tay giữa kẻ gian này tới kẻ gian khác [mua lại đồ ăn cắp, tước đoạt].
Có ai vô lý, bất nhân tâm đến độ coi nạn nhân NKA bị tước đoạt tài sản là kẻ “ngoại cuộc”, ngoại lai, vô tư cách khiếu nại, truy sách đòi lại của cải mất mát mà đương sự vẫn đủ bằng khoán tư hữu?!
Vậy có ai bất nhân, bất công cho rằng người tỵ nạn cộng sản Việt Nam [VTNCSVN] nay ở nước ngoài đương nhiên phải mất nhà, mất cửa, phải mất quê hương xứ sở cho lũ cướp ngày, tàn bạo, võ đoán, lũ người thường vỗ ngực “vô sản chuyên chính”, nay lô diện mafia gian lận tư bản đỏ.
Đối với đa số người Việt tỵ nạn CSVN [VTNCSVN] nay cư ngụ nơi đất khách quê người, Không Gian Việt vẫn là một thực thể nguyên vẹn: đa số người VTNCSVN thường nghĩ, thường nói: “tôi không ở đất nước, đất nước ở trong tôi”. Giản dị và trung thực như vậy.
Đối với đa số người VTNCSVN nay cư ngụ nơi đất khách quê người, Không Gian Việt đó tuy vắng chủ chính thức vẫn là một gia tài bất khả tước đoạt, vẫn là của họ, nên cần truy lùng và đòi lại từ tay kẻ cướp đoạt.
Như vậy, đối với toàn dân dù tỵ nạn “trong nước”, hay tỵ nạn “ngoài nước”, Không Gian Việt đó vẫn chỉ là một gia tài bị tước đoạt một cách bất chính, bằng vũ lực, súng ống, hay bằng giấy tờ sang đoạt giả mạo.
Ở khía cạnh pháp lý, truyền thống máu mủ, tâm linh, tình cảm, Không Gian Việt đó vẫn nguyên vẹn của toàn thể hay đa số người Việt chân chính. Không Gian Việt vẫn chờ đợi sự khiếu nại, truy sách, đòi lại của những người sở hữu chủ chân chính, thực sự. Mọi sự chấp hữu bất chính, bằng vũ lực, chuyển tay gian lận, đều vô hiệu, phải hủy bỏ.
Vậy, trong Không Gian Việt toàn diện, toàn cõi này, xin miễn phân chia người Việt “trong và ngoài” nước, vì Không Gian Việt bao gồm cả giang sơn thực thể và giang sơn bị tạm bợ tước đoạt, đang truy sách, đòi lại. Nên gọi họ là người Việt-phương-Tây và người Việt-phương-Đông là chí lý, hợp tình hợp nghĩa hơn cả.
Thật vậy, Không Gian Việt đó chỉ là một, dù đa dạng về mặt địa lý, vị trí, cai quản. Nên không thể phân chia sai lầm – trong nước và ngoài nước — để truất phế, khai trừ người vắng mặt. Không Gian Việt chỉ là một thực thể, mà bất cứ ở khía cạnh nào, bên trái, bên phải, nam bắc, đông tây, vẫn chỉ là một không gian độc nhất. Bất cứ chỗ nào cũng là trọng tâm, trọng điểm của toàn thể Không Gian Việt bất khả chia tách, bất khả tước đoạt. Bất cứ chỗ nào cũng có thể là điểm nóng, là chiến tuyến chống và khai trừ kẻ xâm lăng, kẻ thù chung, dù đó là nội thù tức CSVN hay ngoại thù tức Hán Cộng và bất cứ kẻ láng giềng bất lương, bất hảo nào khác.
Về mặt văn hoá, văn chương, mỹ thuật, kể cả về mặt tình cảm, Không Gian Việt không thể bị giới hạn ở bờ cõi lãnh thổ, lãnh hải, mà còn lan rộng tới những chân trời vô tận. Truyện Kiều, thơ Hồ Xuân Hương, những bài hát dân gian, khi được chuyển ngữ sang Anh văn, Pháp văn sẽ hội nhập kiến thức và tâm hồn của biết bao cộng đồng văn hoá khác trên thế giới đang tìm kiếm, thưởng ngoạn, chọn lựa những giá trị sáng tạo từ nguồn gốc Việt. Đã biết bao nhiêu dịch giả, nhà văn Việt-phương-Tây đang làm công việc khai mở bờ cõi văn hoá, tư tưởng cuả Không Gian Việt ngay trong lòng không gian nhân loại, đa nguyên, đa dạng.
Về mặt chiến lược, ngoại giao và ảnh hưởng nơi tập đoàn thế giới, chúng ta hay nhắc tới thế “nhiệm cách”, đại diện và ảnh hưởng sâu đậm của cộng đồng Do Thái tại các nước Tây phương và nhất là tại Hoa Kỳ. Chắc chăn người Do Thái sẽ không có phương tiện và kỹ thuật thành lập đất nước họ một cách hữu hiệu như vậy, trong thời điểm lịch sử 1948, hay không thể gìn giữ nước Israel cho tới ngày nay nếu không có áp lực và sức chống đỡ chiến lược của người Mỹ gốc Do Thái, hay của người Do Thái đang sinh sống, lập nghiệp tại Hoa Kỳ.
Về mặt quốc tế công pháp, người di dân tại Pháp, Canada, Hoa Kỳ, Úc vẫn có quyền có song tịch [dual citizenship]. Như vậy, người Việt-phương-Tây khi muốn, hay nếu cần, vẫn có quyền coi mình có quốc tịch Việt.
II. Lương Tri Việt
Như xác định phía trên, Không Gian Việt chỉ là một đối với người Việt bất cứ ở đâu, phương Đông và phương Tây. Dù họ có ở những vị trí, bờ cõi khác nhau, những Tiểu Bang, những Nước khác nhau, họ vẫn có cái Không Gian Việt của họ, nếu họ muốn gìn giữ, bảo trọng, nếu thực tâm, họ chưa khước từ, bác bỏ.
Vậy người Việt bất cứ ở đâu, nếu họ muốn, nếu họ chọn, vẫn là người Việt. Do đó, về mặt thuần lý, lương tri của người Việt bất cứ ở đâu, tại phương Đông hay tại phương Tây vẫn chỉ là một khả năng, một cơ hội hiểu biết đứng đắn về sự thật, về những phải trái rõ rệt, mà lịch sử và đời sống chứng tỏ nguyên hình, nguyên trạng.
Sự thật đó, cả nước và hầu như toàn dân, kể cả những đảng viên sáng suốt đều thấy rõ CSVN sai lầm từ lúc sơ khởi cướp nước; CSVN hại dân một cách liên tục, thâm độc, và nhất là không hề biết hối cải, ăn năn dù một lần chân thực.
Vậy trong khi CSVN quyết tâm bám chặt định hướng xã hội chủ nghĩa, tận dụng vị thế siêu quyền lực để củng cố đảng phiệt, độc quyền thao túng thị trường, độc quyền tham nhũng và gây thảm hoạ cho đất nước, cho dân tộc, thì đa số người Việt tỵ nạn cộng sản ở bất cứ đâu, phương Đông hay phương Tây vẫn phải giữ vững lương tri và lập trường — vừa đề cao cảnh giác trước tai ương lịch sử, vừa chuẩn bị cho giai đoạn tái thiết đất nước khi CSVN cáo chung, khi đảng phiệt này tự nổ hay bị giải thể.
Tranh đấu CSVN-Mafia bằng trí giác, bằng lời lẽ minh bạch nêu cao sự thật và đại nghĩa là lương tri chính xác nhất, khi mục đích là chuyển lực và kết sinh bênh vực người dân, bất cứ ở đâu, giúp họ thêm kiến thức, thêm phương tiện và kỹ thuật vượt Cộng, hầu dứt bỏ đời sống tăm tối, để tự tay tạo dựng và duy trì một tương lai tốt đẹp, tử tế, đầy đủ về mặt vật chất lẫn tinh thần.
Người Việt bất cứ ở đâu chỉ nên có một thứ lương tri toàn diện: bảo trọng sự thật, thực hiện quyền sống trọn vẹn, có giá trị cho mình và cho người khác. Đem an sinh và phúc lợi chung cho đa số dân tộc Việt, và nếu có cơ hội, ra tay giúp đỡ nhân loại bất cứ là ai, bất cứ ở đâu, thì càng hay, càng quý.
Do đó, Lương Tri Việt có thể biểu hiện song phương hay đa phương, song ngôn hay qua nhiều tiếng nói xây dựng khác nhau, nhưng cứu cánh vẫn chung một giá trị, một định hướng hợp lý, hợp tình: bảo trọng và phục vụ quyền lợi chung cua dân tộc, của con người.
Lương Tri Việt chân chính không những nhằm chống và vượt Cộng sản khắp nơi, tại phương Đông, lẫn phương Tây, mà còn phải nỗ lực chống và vượt thắng mọi hà tì, sai quấy từ bất cứ thành phần phản nước hại dân nào khác. Mục đích vẫn chỉ là bảo trọng sự thật và phục vụ quyền lợi chung của dân tộc, của con người.
Ai ai cũng thấu hiểu căn nguyên của mọi tai ương, sai quấy, mọi đổ vỡ, khuynh đảo, mọi nhục nhã bất hạnh là do CSVN gây ra, của Cộng sản quốc tế chỉ đạo, đến nỗi cả cựu Tổng Thống Nga Boris-Yeltsin cũng đã từng nói “Cộng Sản không thể nào thay đổi, mà cần phải dẹp bỏ.”
Vậy, nếu lợi dụng tự do ngôn luận, tự do tư tưởng để cổ vũ sai quấy và tội ác của kẻ gian, kẻ trọng tội bất trị, vô phương cứu chữa; để đánh bóng, giúp đỡ hay tiếp hơi một chế độ thống trị bán nước, phản dân như CSVN, thì đó không phải là “tiếng gọi của lương tri”, không phải là một suy tư hay dấn thân chân chính, một chọn lựa tử tế, mà chỉ là một âm mưu hay mắc mưu tham gia hệ thống tội ác.
III. Để Tạm Kết Luận
Người Việt ở bất cứ đâu, vào bất cứ giai đoạn nào, nếu quyết tâm tin tưởng vào công cuộc xây dựng Không Gian và Lương Tri Việt một cách trong sáng, chân chính, vững bền, sẽ có ngày giải thể CSVN và sau đó xây dựng một chính thể của dân, vì dân, bởi dân.
Với điều kiện là người Việt chúng ta ý thức rõ vị thế của mình và tôn trọng mục tiêu lựa chọn.
Trân trọng,
TS-LS Lưu Nguyễn Đạt
Không có nhận xét nào: