TNCG - 6.7.2013: BBT . Blog TNCG tiếp tục giới thiệu tiếp những bài viết thể hiện quan điểm của Ls Lê Quốc Quân nói rõ về thực trạng "Chồng Chéo" (gieo Gió nhưng lách được Bão) của Hiến Pháp và Pháp Luật VN hiện nay, cũng như sự "Khập Khiểng" trong việc ban hành, thực thi, giám sát của hệ thống Lập Pháp, Tư Pháp và Hành Pháp. Đây có phải là cái cớ mà nhà Cầm Quyền HN buộc Luật sư bất đồng chính kiến Lê Quốc Quân tội " TRỐN THUẾ" ? Mời Quý vị xem những bài tiêu biểu sau đây:
1 - ĐẢNG LÀ "BÀ" CỦA LUẬT PHÁP
Chúng ta thường xuyên nghe cụm từ “Đảng và Nhà nước”. Tại sao phải đưa từ Đảng vào cụm từ đó và đứng trên Nhà nước, làm nhà nước mất thiêng, vừa tốn kém giấy mực vừa gây nhầm lẫn cho quốc tế ? (vì đảng tiếng anh còn có nghĩa là bữa tiệc )
Phải dùng cụm từ đó là vì nhân dân Việt Nam đang “một cổ hai tròng”, có 2 bộ máy song trùng đè đầu cưỡi cổ. Cứ bên Chính phủ có một “Bộ” là bên Đảng có một “Ban”. “Ban” chỉ đạo còn “Bộ” thực hiện. Dân phải kiếm tiền nuôi hai người tự nhận là lãnh đạo cỡi trên lưng, thỉnh thoảng lại có một cái bóng nằm giữa cũng tự xưng là lãnh đạo.
Công khai lấy tiền của dân
Điều 46 điều lệ của Đảng cộng sản, có quy định là: “tài chính đảng gồm các nguồn thu từ: Đảng phí, hoạt động kinh tế của Đảng và ngân sách Nhà nước”. Đảng phí thì ít, hoạt động kinh tế thì lỗ, thậm chí phải bù thêm. Phần nhiều nhất, quan trọng nhất cho hoạt động của đảng là là đến từ ngân sách Nhà nước.
Khi cần tiền thì đảng sang Bộ tài chính lấy và hầu hết chi bằng tiền mặt. Hoạt động của Đảng có ghi ra thành mục, tương ứng với các dòng vốn chi cho các hoạt động đó nhưng một số cơ quan của trong ngành an ninh, nội chính còn lấy lý do bảo mật thậm chí không ghi hạng mục và hạn mức, tự “vẽ” dự án, chuyên án cho riêng mình để chi tiêu.
Cho đến nay dân chưa bao giờ được nhìn thấy báo cáo kiểm toán công khai xem cơ quan Đảng đã sử dụng bao nhiêu tiền của dân và chi tiêu về vấn đề gì ?. Người dân không ai biết được ngoại trừ bộ phận kinh tài của đảng, và các đơn vị đi thanh tra, kiểm tra với nhau. Kiểm toán Nhà nước thì cũng đưa thông tin nhỏ giọt và có mục đích riêng.
Tại sao nhân dân lại phải đóng thuế nuôi đảng ? Có người đã hỏi điều này ở đại hội thì ông Đỗ Mười khi đó là tổng bí thư trả lời là: “Đảng lãnh đạo dân thì nhận lương của dân là hợp lý”. Nhưng dân có cần đảng lãnh đạo không khi họ đã có Nhà nước ?. Nghiêm trọng hơn là sau này nếu có một đảng nào đó lên lãnh đạo rồi học theo cách đảng Cộng sản cũng đòi tiền ngân sách thì sao ?
Tóm lại ta có thể hình dung Mẹ Việt Nam hằng ngày, bán mặt cho đất bán lưng cho trời, nhưng lại phải cõng trên lưng 2 người rất béo, rất khỏe và ông nào cũng đòi lãnh đạo. Một ông thì lãnh đạo bằng Nghị quyết còn ông kia thì bằng Luật pháp, mẹ giống như con trâu đã bị xâu mũi kéo cày, hai bên 2 dây thừng, thỉnh thoảng ông lãnh đạo này lại giật sang bên trái, lúc thì ông khác ghì về bên phải.
Đảng là “bà” của pháp luật
Một điều tréo cẳng ngỗng nữa là Quốc hội làm ra Luật và Điều 4 Hiến pháp cũng quy định là đảng hoạt động “trong khuôn khổ Hiến Pháp và pháp luật”. Nhưng quốc hội lại phải dựa vào Nghị quyết để làm luật. Đảng nằm trong luật, luật nằm trong Nghị quyết nhưng Đảng lại “Đẻ” ra Nghị quyết. Điều đó nghĩa là Đảng là “Bà”, Luật là “Cháu” nhưng Bà lại nằm trong bụng Cháu.
Điều này dẫn đến sự thất bại thảm hại về thực tiễn. Lý do là thực tiễn rất sinh động và đời sống xã hội phải thay đổi luôn luôn. Như Tố Hữu đã nói cái “hòn máu đỏ” vô tổ quốc, vô gia đình (không quê hương sương gió tơi bời) đó cũng phải lớn lên, thay đổi, chạy theo để “rượt đuổi” thực tiễn phát triển xã hội và ban hành ra “Nghị Quyết” mới, từ Nghị quyết đó lại đi xây dựng Luật mới. Như vậy là bắt đầu lại khởi tạo một vòng tròn lập quy ngẫu hứng và nhiều khi mang tính phản động cao.
Đất nước đã có luật thì cứ theo luật mà làm, sao lại còn phải có Nghị Quyết. Chính việc ban hành các Nghị quyết đã thể hiện rõ tính chất lâm thời của đảng. Cứ tưởng có cả Nghị Quyết và cả Luật thì chắc ăn nhưng thực ra chính là nơi tạo ra khe hở. Sau đây là ví dụ thoát hiểm.
Đồng chí X thắng hai kiện tướng
Đồng chí X vừa là một vừa là uỷ viên BCT vừa là Thủ tướng, ngài tồn tại với 2 tư cách và chuyên môn khác nhau, thậm chí đôi khi trái ngược nhau. Với tư cách là ủy viên BCT, đồng chí X cùng 13 người khác ra một Nghị quyết. Sau đó đồng chí X dựa vào Nghị quyết để thực hiện với tư cách là Thủ tướng. Khi hậu quả xảy ra, lẽ ra đồng chí X, với tư cách là ủy viên BCT thì phải “chịu trách nhiệm chính trị theo nghị quyết” và với tư cách là Thủ tướng ông phải“chịu trách nhiệm pháp lý theo luật”
Thế nhưng ông đã thắng cả 2 cửa. Trong Đảng Đồng chí X bảo tôi làm theo “quy định của pháp luật” và chịu trách nhiệm pháp lý vì Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và Pháp Luật. Ông cũng không quên giải trình về sự liên quan của 13 vị khác trong một trách nhiệm pháp lý chung theo luật định. Nhưng khi ở diễn đàn quốc hội, nơi dân chúng quan tâm và bàn về Luật và trách nhiệm pháp lý thì Đồng chí X lại khẳng định là mình theo đảng, làm theo Nghị quyết của Đảng và “chịu trách nhiệm chính trị với đảng”.
Điều này làm cho chúng ta nhớ lại một câu chuyện là cậu bé đánh thắng cả 2 nhà quán quân. Một kiện tướng cờ và một kiện tướng bài Poker. Chính cậu bé thách đấu cả 2 và khi cậu bé chạy đi chạy lại giữa 2 toa tàu là lúc cậu dùng kiến thức của kiện tướng này để đánh với người kia và ngược lại.
Đồng chí X đã dùng kiến thức kinh tế, pháp lý của mình để nói rất đúng trong nội bộ đảng về Luật, sau đó lại chạy sang Quốc hội để đáp lại quốc hội tại diễn đàn chung theo Nghị quyết.
Phải độc lập và chỉ tuân theo pháp luật
Hiến pháp và Pháp luật phải đại diện cho công lý, là nền tảng vững chắc cho đất nước và con người phát triển. Nó không phải là một ông kễnh với bộ não của một cậu bé vừa muốn nhận mình là khiêm tốn lại thích phán ra những điều kinh thiên động địa cho mai sau.
Và để không còn một cổ hai tròng, để đảng không còn lấy tiền dân chi tiêu cho riêng mình, không còn ai làm sai và thoát hiểm nữa thì Quốc hội phải độc lập làm ra luật, chính phủ thực thi luật và tòa án đứng ra canh giữ luật đó. Các cơ quan phải độc lập và đối trọng lẫn nhau thì mẹ Việt Nam mới đỡ bị một lúc 2 kẻ xâu mũi dắt đi lung tung theo chủ trương đầy ngẫu hứng như kẻ say rượu.
***********************************************************************
2 - HIẾN PHÁP HAY LÀ BẢN HỢP ĐỒNG ĐIỆN NƯỚC ?
Tôi biết rằng những điều tôi viết sau đây có thể bị Đảng Cộng sản vứt vào sọt rác hoặc thậm chí tệ hơn là có thể bị tống giam nhưng lòng tin vào con người, sự hệ trọng của vấn đề cùng ý thức công dân thúc bách tôi.
Đó là từ ngày 2/1 đến 31/3/2013 Nhà nước sẽ lấy ý kiến nhân dân về dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992, tháng 5/2013 sẽ trình quốc hội và nếu không có những sự biến lớn thì tháng 11/2013 nhân dân Việt Nam sẽ có bản Hiến pháp mới.
Đây sẽ là bản hiến pháp thứ 5, không kể nhiều lần sửa đổi, trong một thời gian chỉ hơn 6 thập kỷ những người cộng sản cầm quyền.
Chi tiết thì có đầy dẫy những điều khoản mâu thuẫn, lập lờ hoặc hỗn xược thách thức trí tuệ dân tộc Việt nhưng tôi sẽ không đi vào cụ thể mà chỉ nói lên ý nghĩa và tầm quan trọng của một bản hiến pháp hầu mong các đại biểu quốc hội hiểu và tranh đấu cho dân.
Nền tảng cho ngôi nhà Việt Nam
Có rất nhiều loại, nhiều định nghĩa và cách hiểu về Hiến pháp. Tuy nhiên, có thể hiểu rằng Hiến pháp là đạo luật cao nhất, quy định những nguyên tắc cơ bản nhất về tổ chức nhà nước, về quyền công dân, về mối quan hệ giữa lập pháp, hành pháp và tư pháp. Một cách mộc mạc thì “Hiến pháp chính là một hợp đồng trao quyền và giao việc giữa chính quyền và người dân”
Lịch sử cho thấy các quốc gia phát triển và trở thành siêu cường trong một thời gian dài thường gắn liền với nền cộng hòa, nơi con người được tự do tranh luận và khai phóng. Khi quá trình xây dựng được thảo luận kỹ với nguyên lý kiểm soát và cân bằng quyền lực được minh định rõ thì các công dân có thể yên tâm trao phó quyền lực cho cỗ máy cai trị mình.
Xưa La Mã vươn mình trùm cả vùng Địa Trung Hải và nay Hoa Kỳ có thể triển khai quân đến bất cứ nơi nào trên hành tinh này trong vòng 24 tiếng; người Đức thì trù liệu cho cả những vùng đất nằm ngoài biên giới để hơn 40 sau thống nhất cũng không phải sửa đổi hay như Nhật Bản vẫn “quẫy đạp” được trong khuôn khổ Hiến pháp 1946 để có được lực lượng phòng vệ mạnh trước sự gây hấn của láng giềng Trung Quốc…tất cả đều bắt nguồn từ sự cẩn trọng trong xây dựng Hiến Pháp.
Lịch sử cũng cho thấy chưa có quốc gia nào trở nên thịnh vượng lâu dài mà không có Hiến pháp hoặc chỉ do ý chí của một nhóm người tạo nên.
Thông thường phía sau những bản hiến pháp mang đầy ngôn ngữ hoành tráng và dự án viễn vông là sự rượt đuổi đến hụt hơi của các nhà lập pháp nhằm thể hiện thực tiễn phát triển vốn rất cụ thể và sinh động.
Hiến pháp quan trọng đến mức Bắc Phi vẫn là nguồn cảm hứng khi những người dân tiếp tục xuống đường biểu tình chống lại dự thảo Hiến pháp của tổng thống Ai Cập, ông Mohammed Mursi.
Rõ ràng sự thôi thúc của dân chủ và sự hãnh tiến về tương lai mạnh mẽ hơn nhiều những ràng buộc tâm linh và tôn giáo khi các bạn trẻ dù theo hồi giáo đã dám cáo buộc tổng thống hành xử như một nhà độc tài trong nỗ lực muốn phá vỡ khả năng kiểm soát và bảo vệ pháp luật của tòa án.
Điều đó cho phép ta lạc quan về nền dân chủ, một khi đã bắt rễ trong xã hội, sự quay lại của các nhà độc tài chắc chắn là gặp trở ngại.
Thật vậy, lập hiến, giống như chúng ta xây dựng một ngôi nhà, nền móng có tốt thì mới bền vững được lâu dài và có khả năng mở rộng và xây lên nhiều tầng cao.
Hiến pháp cũng có thể được coi như bộ rễ quyết định sự vững chắc và độ xum xuê của các nhánh luật pháp sau này. Ngôi nhà có cao và vững chắc hay không, cây pháp lý có nhiều cành và tỏa bóng mát được rộng khắp hay không là hoàn toàn phụ thuộc vào gốc, phụ thuộc vào khả năng chịu lực, khả năng hút dinh dưỡng là những ý tưởng tự do từ đất mẹ Việt Nam.
Hiến pháp hay cương lĩnh Đảng?
Nhân dân Việt Nam chúng ta sắp sửa có một văn bản tác thành mô hình Nhà nước, một ngôi nhà để tất cả con dân Việt chung sống với nhau.
Liệu chúng ta có giao phó toàn bộ việc này cho những đảng viên đảng cộng sản mà suy cho cùng cũng chỉ có một số người cấp rất cao, với nhóm gen rất nhỏ và dấu hiệu của sự thiểu năng đã lộ rõ, áp đặt ý chí của mình lên việc thiết kế nó?
Điều này chắc chắn không ai khác ngoài các đại biểu quốc hội phải lưu tâm khi thay mặt nhân dân ký kết bản hợp đồng giao việc này.
Tôi nghĩ, nhân dân Việt Nam đã vượt qua bao nhiêu gian khó suốt chiều dài lịch sử nhọc nhằn của mình, sẵn sàng hy sinh một phần khái niệm “Con người” để hướng đến giá trị “Công dân” khi ký kết một thỏa ước lập hiến với chính quyền với điều kiện các quyền công dân đó phải được phản ánh đúng qua những người đại diện của mình.
Nếu như các đại biểu quốc hội chỉ làm theo sự lãnh đạo của đảng mà quên đi những khát vọng thực sự của nhân dân, vốn đang ngày càng khác biệt với ý chí của đảng cộng sản thì điều đó đã hàm chứa sự phản bội hoặc lừa gạt ý chí nhân dân.
Điều tệ hại nhất đã xảy ra là Quốc hội đã giữ lại điều 4 trong Hiến Pháp khẳng định sự lãnh đạo của đảng trên toàn dân tộc Việt Nam, nghĩa là quốc hội đã trao cho đảng một chiếc đũa thần để toàn quyền đan rọ mà mặc nhiên quốc hội phải chui vào.
Khi đó đảng bắt đầu lấy quyền lực chính trị của mình và khái niệm “ổn định chính trị” để ngăn chặn sự thể hiện của tự do công dân bằng cái đuôi “theo quy định của pháp luật” nằm tại rất nhiều điều của hiến pháp.
Có thể các đại biểu đã sai nhưng các Ngài cũng cần phải biết rằng “Ý chí chung của Nhân dân có thể bị nhầm lẫn, nhưng nó không thể bị phá hủy”.
Đại biểu quốc hội hiện tại gồm nhiều người tốt có thể bị dẫn dụ, mê hoặc và lâu dần tình cảm đó trở thành một niềm nuối tiếc trong tâm thức nhưng ý chí chung của nhân dân và sự đòi hỏi của tri thức, của khao khát thực thi quyền lực đúng đắn đang tiếp tục giục giã tất cả chúng ta đưa đất nước tiến lên.
Hơn lúc nào hết, các đại biểu quốc hội thay mặt người dân cần phải hiểu và đấu tranh bằng được rằng Hiến pháp là gốc của mọi sự phát triển, rằng mục đích phát triển cuối cùng của con người chính là sự bình an và triển nở các giá trị tự do trong não, trong tim của mỗi một con người chứ không phải là giới hạn tự do. Nếu làm suy giảm quyền tự do của công dân bao nhiêu thì sức lực của quốc gia chắc chắn sẽ giảm sút bấy nhiêu.
Các đại biểu cũng đừng sợ và cổ súy cho những “tên bạo chúa tập thể” gồng lên để chèn ép tự do của nhân dân. Các Ngài cần hiểu rằng không những chiếc ghế mà cả sự tự do của các Ngài cũng sẽ không còn nếu cổ súy cho ai đó “xù lông dựng cánh” với nhân dân vì đó là lúc các Ngài đang giúp kẻ thù lăm le xâm chiếm thành bang nở nụ cười đắc thắng. Và nước mất thì nhà có tan không?
Các Ngài cũng cần ý thức rằng những vương triều vinh quang chói lòa rồi cũng đã đi qua, chính trị cũng như cơ thể con người, tuổi già và cái chết đã được cài đặt ngay khi mới sinh ra.
Nếu Hiến pháp không được soạn thảo một cách kỹ lưỡng để nó trẻ hóa và tự làm mới mình trước những biến cố của thời cuộc đầy đầy phiêu du thì sẽ triệt tiêu sức lực của toàn dân và dẫn đến sự tiêu vong của cả dân tộc.
Dù cho đảng có lấy vấn đề ổn định chính trị để ngăn cấm quyền dân thì các đại biểu của dân cần phải hiểu là mình có thể ôm cả đống sách và xô đổ bàn ghế đánh nhau, nhưng ngoài kia, dân chúng vẫn vui vẻ làm ăn, và luật pháp không xáo trộn mới thực là “thái bình thịnh trị”. Đó mới là cái mà Nhân dân mong muốn ở các Ngài.
Hiến pháp không thể là một cương lĩnh chính trị của một đảng cầm quyền vì bản thân Hiến pháp phải hàm chứa được việc tạo nên một thế cân bằng cho sự phát triển đa dạng.
Đảng Cộng hòa hay Dân chủ chỉ được ví như hai chân trong một cơ thể nước Mỹ, cứ chân này bước lên bốn hoặc tám năm thì chân kia bước tiếp, nó đảm bảo cho sự hài hòa trong nỗ lực đưa quốc gia tiến về phía trước.
Bởi vậy, dù không có đa nguyên Hiến pháp Việt Nam nhất thiết phải cài cắm được những điều kiện tiên quyết của phát triển, nên ngắn gọn, rộng, và bao hàm đầy đủ cho một dân tộc phát triển và tất nhiên không thể là ý chí của một nhóm người hay của một đảng phái chính trị nào.
Ý thức về tương lai
Quốc hội là cơ quan quyền lực tối cao của nhân dân và quốc hội không có sức mạnh nào khác ngoài quyền lực lập pháp. Vì thế, hơn lúc nào hết, các Nghị sỹ cần phải có ý thức với tiền đồ của dân tộc để thật lòng thể hiện ý chí chung của nhân dân.
Luật pháp quyết không được ban ra theo kiểu: “dự trù” hoặc “thăm dò” vì nó sẽ làm cho người dân nhờn đi, quen với thói quen của sự ăn gian, nấn ná, xem thường…Đại biểu càng không thể cố tình xuê xoa, thỏa hiệp thông qua những vấn đề quan trọng với một thái độ thờ ơ, cả nể.
Xét về mặt phát triển xã hội thì những tiến bộ của loài người gần đây cũng không đi quá xa những điều mà chính ông cha ta đã bàn từ rất lâu.
Bởi vậy, với quyết tâm và tình yêu thật sự, hãy để lại một cái gì đó cho con cháu tự hào, hoặc nếu thấy khó quá thì cứ học theo ông cha đem đầy đủ Hiến pháp của năm 1946 áp dụng lại.
Xây dựng được Hiến pháp đã khó, việc bảo vệ nó khỏi sự lạm quyền của Hành pháp và của chính Quốc hội trong việc bàn hành pháp luật càng khó hơn. Có một sự thật phải thừa nhận rằng sự ly khai khỏi nền tảng chung để hướng đến các lợi ích riêng là điều luôn luôn tồn tại trong sự phát triển của xã hội loài người.
Bởi vậy, cần phải có cơ chế bảo hiến để canh giữ hiến pháp, bảo vệ chính quốc hội khỏi ban hành những bộ luật nhằm thỏa mãn một nhóm lợi ích nào đó, bảo vệ Chính phủ khỏi sự lạm dụng quyền lực trong khi thực thi pháp luật.
Bởi thế cơ chế bảo vệ hiến pháp độc lập phải thực sự được coi trọng.
Tiếc thay, trong ba phương án bảo vệ Hiến pháp là thành lập tòa án Hiến pháp, Hội đồng bảo hiến độc lập và Hội đồng bảo hiến thuộc Quốc hội thì Đảng đã chỉ đạo lựa chọn hình thức thứ ba là hình thức kém độc lập nhất.
Nếu có một cơ chế bảo hiến tốt thì những cái đuôi “theo quy định của pháp luật” như lâu nay, vốn cổ súy cho việc vi hiến tràn lan, sẽ bị chặt đứt. Và đương nhiên các đạo luật sau này ban hành ra thường là để tạo điều kiện cho người dân thực hiện chứ không phải để ngăn cản hoặc tước đoạt các quyền đó.
Các quyền tự do của Công dân đang ghi tại Điều 69 đương nhiên được thực hiện và sẽ mở đường cho hàng loạt nhân quyền khác. Khi đó những Nghị định cấm người biểu tình ở Hà Nội sẽ bị tòa bảo hiến từ chối áp dụng vì vi hiến.
Như vậy thay vì nó là một hợp đồng có được thảo luận kỹ càng thì Đảng mặc nhiên coi đây là hợp đồng áp đặt theo mẫu như lắp điện thoại, cấp nước, cấp điện ở Việt Nam mà người dùng hoàn toàn buộc phải ký chứ không có cơ hội được thảo luận bình đẳng.
Các hợp đồng đó tạo ra cho cá nhân sự bất lợi, còn hợp đồng Hiến pháp là cho các một quốc gia và liên quan đến một vấn đề gai góc và đầy cám dỗ là quyền lực, thì nó sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển nhường nào.
Bài viết đã được đăng trên BBC tại địa chỉ
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/forum/2012/12/121217_hien_phap_se_ra_sao.shtml
3 - ĐẢNG CS HÃY TRẢ LẠI HIẾN PHÁP 1946 CHO DÂN TỘC VN
Sau khi Đại Hội Đảng XI kết thúc, Quốc Hội đã phê duyệt xong các vị trí chủ chốt, bây giờ là lúc những người Cộng sản bàn việc đến việc sửa Hiến Pháp để củng cố quyền lực và kéo dài sự trị vì của mình trên dân tộc Việt Nam.
Một Ủy ban sửa đổi Hiến Pháp đã được thành lập ngày 6/8 với 30 thành viên, Trưởng ban là chủ tịch quốc hội Nguyễn Sinh Hùng. Uỷ ban này dự kiến sẽ cho ra lò một Hiến Pháp mới vào cuối năm 2013.
Dù biết rằng Việt Nam là một cơ thể đang lớn từng ngày và quần áo pháp lý chật chội đang bị bung cúc lung tung nhưng Hiến Pháp không phải là một cái váy, thích thay khi nào thì thay.
Nhìn lịch sử thế giới, có thể thấy rằng những nước văn minh thì hiến pháp ngắn gọn mà đầy đủ, thậm chí bất thành văn (như ở Vương Quốc Anh). Ngược lại, ở những quốc gia kém phát triển thì nhiều hiến pháp, hầu hết dài dòng, giáo điều thậm chí giả tạo. Hiến Pháp Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ được viết ra cách đây 224 năm chỉ ngắn gọn 7 điều mà đến nay vẫn nguyên giá trị. Hiến Pháp Cộng Hòa Liên Bang Đức 1949, với tầm nhìn chiến lược dự báo và định hướng tương lai, vẫn nguyên hiệu lực cho một Nước Đức thống nhất sau 40 năm.
Trong khi đó kể từ năm 1945 đến nay, Việt Nam đã có tới 4 Hiến Pháp (1946, 1959,1980 và 1992) với nhiều lần sửa đổi. Quốc gia “vừa bành vừa trướng” ngay sát vách chúng ta cũng không kém cạnh với 4 bản Hiến Pháp (1954, 1975, 1978 và 1982) và nhiều lần sửa đổi.
Bản Hiến Pháp bị đánh cắp !
Hiến pháp là đạo luật gốc, là một khế ước xã hội được ký kết giữa Nhân dân và Nhà cầm quyền. Hiến Pháp quy định nguyên tắc chính trị căn bản và thiết lập thể chế, cơ cấu và tổ chức quyền lực của Nhà nước. Thông thường Hiến pháp cổ súy Nhân dân với tư cách là người chủ sở hữu “lật đổ chế độ” và ký lại khế ước với các đại diện cầm quyền khác nếu như Nhân dân bị người thay mặt cầm quyền “bội ước”.
Cũng như nhiều quốc gia sau Thế chiến thứ II, Việt Nam có một Hiến Pháp tương đối hoàn chỉnh gồm 7 Chương, 70 Điều được Quốc Hội đa đảng đầu tiên của Việt Nam độc lập thông qua ngày 9/11/1946. Dù chưa được công khai hóa và áp dụng trên thực tế nhưng quyền cơ bản của công dân và tinh thần tự do dân chủ của nó vẫn giữ nguyên giá trị. Đặc biệt, trong xã hội dân sự ngày nay các quyền công dân cơ bản ấy rất cần được tôn trọng và phổ cập trong đời sống xã hội như một nguồn sống tinh thần không thể thiếu được.
Trong Hiến Pháp 1946, Điều 16 ghi nhận với tinh thần bao dung và thái hòa: “Những người ngoại quốc tranh đấu cho dân chủ và tự do mà phải trốn tránh thì được trú ngụ trên đất Việt Nam”. Những người soạn thảo Hiến Pháp thời đó, gồm các nhân sĩ tinh hoa của Đất Nước trong đó có cả cụ Cù Huy Cận, thân phụ của Tiến sỹ Cù Huy Hà Vũ, với niềm tin rằng , Việt Nam sẽ là mảnh đất dung thân cho những người có tư tưởng tự do trên thế giới. Họ đâu biết rằng giờ đây hàng ngàn người Việt đấu tranh cho dân chủ và tự do tôn giáo đang phải băng rừng trốn sang Thái Lan hoặc chạy ra nước ngoài để tìm cơ hội tị nạn chính trị.
Trong Hiến Pháp “gọn và đẹp” đó còn có một thứ rất quan trọng nằm ở điều cuối cùng (Điều 70) là “Sửa đổi hiến pháp”. Theo đó, khi có 2/3 tổng số Nghị viên yêu cầu thì sẽ bầu ra một Ban dự thảo để bàn bạc những điều cần thay đổi. Sau khi Nghị Viện “ưng chuẩn” rồi còn phải “đưa ra toàn dân phúc quyết”. Đó là điều mà Đảng cộng sản chưa bao giờ làm.
Khi những người cộng sản lộ diện dần trong Việt Minh và Chủ nghĩa xã hội trồi lên ở nước Việt thì Hiến Pháp 1946 bị “biển thủ”. Tuy nhiên, sự cuồng ngôn, đánh tráo khái niệm theo kiểu “cưỡng từ đoạt lý” được thể hiện trong các bản Hiến Pháp tiếp sau đó không thể làm phai mờ những giá trị hằn sâu trong hiến pháp 1946.
Đánh cắp là việc tày đình, còn mưu toan thủ tiêu nó là trọng tội. Nhưng cuối cùng những âm mưu và thủ đoạn đen tối cũng sẽ thất bại và sự thật sẽ chiến thắng . Hiến Pháp 1946 đang sáng dần lên và đã đến lúc phải được trả lại.
Đi một cung đường vòng
Sự thay đổi hiến pháp liên tục sau này cho chúng ta thấy tính chất lâm thời của chế độ. Nó “lâm thời” từ ý thức đến quyết định, từ hiến pháp đến luật…. Đảng coi Hiến Pháp là một cương lĩnh chính trị của chính mình, là một bài văn mô tả ý định của đảng mà càng đi càng thấy xa dần.
Sự lâm thời thể hiện rõ trong điều hành quốc gia khi người ta dùng “nghị quyết” chứ không phải Luật. Các Hiến Pháp sau này, như một thầy dạy môn Luật Hiến Pháp tại Trường Đại Học Luật Hà Nội, gắng uống thật say, và sau khi triết lý: “đời là cái đinh, tình là cái que” liền lảo đảo một cách đầy dũng cảm thổ lộ: “tao biết biết rõ thằng nào copy Hiến Pháp 1980 và copy từ nước nào”.
Hiến Pháp được làm ra bằng con đường copy của Liên Xô như vậy thì dĩ nhiên nó bị sửa đổi liên miên. Thay đổi này là do sự câu thúc của thực tế. Thế nhưng khi người ta đã đi lạc hướng thì cách tốt nhất là quay đầu đi lại, chứ không thể cứ sửa dần bằng cách đi uốn cong theo một đường vòng cung.
Như thế, đối với một con người là tổn thất, đối với một đất nước là sự phá sản. Nếu thay đổi dần dần và liên tục, dân chúng sẽ quên rằng, ta đang có một Hiến Pháp, một khế ước cơ bản và thiêng liêng, nghĩa là quên “sự tác thành” của một tự tình dân tộc.
Đỉnh hay đáy kim tự tháp
Hiến Pháp là linh hồn, là hơi thở trong cơ thể quốc gia, nó ghi nhận được những điều gì mà người dân mong ước nhất, là đạo luật tối cao bao trùm xuống toàn bộ quá trình làm luật và thực thi. Nó như đỉnh chiếc kim tự tháp tỏa ánh sáng xuống soi rọi các đạo luật và văn bản khác nằm trong lòng và bên dưới nó.
Thế nhưng Hiến Pháp hiện hành như một chiếc Kim tự tháp lộn ngược. Hiệu lực của Hiến Pháp teo tóp nằm trên cùng, không có ánh sáng soi rọi, phía dưới cứ phình ra nào là Luật, Pháp Lệnh, các văn bản hướng dẫn, cứ xuống mỗi cấp lại nở to ra và hiệu lực trùm lên cả Hiến Pháp.
Dù biết rằng Việt Nam là một cơ thể đang lớn từng ngày và quần áo pháp lý chật chội đang bị bung cúc lung tung nhưng Hiến Pháp không phải là một cái váy, thích thay khi nào thì thay.
Nhìn lịch sử thế giới, có thể thấy rằng những nước văn minh thì hiến pháp ngắn gọn mà đầy đủ, thậm chí bất thành văn (như ở Vương Quốc Anh). Ngược lại, ở những quốc gia kém phát triển thì nhiều hiến pháp, hầu hết dài dòng, giáo điều thậm chí giả tạo. Hiến Pháp Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ được viết ra cách đây 224 năm chỉ ngắn gọn 7 điều mà đến nay vẫn nguyên giá trị. Hiến Pháp Cộng Hòa Liên Bang Đức 1949, với tầm nhìn chiến lược dự báo và định hướng tương lai, vẫn nguyên hiệu lực cho một Nước Đức thống nhất sau 40 năm.
Trong khi đó kể từ năm 1945 đến nay, Việt Nam đã có tới 4 Hiến Pháp (1946, 1959,1980 và 1992) với nhiều lần sửa đổi. Quốc gia “vừa bành vừa trướng” ngay sát vách chúng ta cũng không kém cạnh với 4 bản Hiến Pháp (1954, 1975, 1978 và 1982) và nhiều lần sửa đổi.
Bản Hiến Pháp bị đánh cắp !
Hiến pháp là đạo luật gốc, là một khế ước xã hội được ký kết giữa Nhân dân và Nhà cầm quyền. Hiến Pháp quy định nguyên tắc chính trị căn bản và thiết lập thể chế, cơ cấu và tổ chức quyền lực của Nhà nước. Thông thường Hiến pháp cổ súy Nhân dân với tư cách là người chủ sở hữu “lật đổ chế độ” và ký lại khế ước với các đại diện cầm quyền khác nếu như Nhân dân bị người thay mặt cầm quyền “bội ước”.
Cũng như nhiều quốc gia sau Thế chiến thứ II, Việt Nam có một Hiến Pháp tương đối hoàn chỉnh gồm 7 Chương, 70 Điều được Quốc Hội đa đảng đầu tiên của Việt Nam độc lập thông qua ngày 9/11/1946. Dù chưa được công khai hóa và áp dụng trên thực tế nhưng quyền cơ bản của công dân và tinh thần tự do dân chủ của nó vẫn giữ nguyên giá trị. Đặc biệt, trong xã hội dân sự ngày nay các quyền công dân cơ bản ấy rất cần được tôn trọng và phổ cập trong đời sống xã hội như một nguồn sống tinh thần không thể thiếu được.
Trong Hiến Pháp 1946, Điều 16 ghi nhận với tinh thần bao dung và thái hòa: “Những người ngoại quốc tranh đấu cho dân chủ và tự do mà phải trốn tránh thì được trú ngụ trên đất Việt Nam”. Những người soạn thảo Hiến Pháp thời đó, gồm các nhân sĩ tinh hoa của Đất Nước trong đó có cả cụ Cù Huy Cận, thân phụ của Tiến sỹ Cù Huy Hà Vũ, với niềm tin rằng , Việt Nam sẽ là mảnh đất dung thân cho những người có tư tưởng tự do trên thế giới. Họ đâu biết rằng giờ đây hàng ngàn người Việt đấu tranh cho dân chủ và tự do tôn giáo đang phải băng rừng trốn sang Thái Lan hoặc chạy ra nước ngoài để tìm cơ hội tị nạn chính trị.
Trong Hiến Pháp “gọn và đẹp” đó còn có một thứ rất quan trọng nằm ở điều cuối cùng (Điều 70) là “Sửa đổi hiến pháp”. Theo đó, khi có 2/3 tổng số Nghị viên yêu cầu thì sẽ bầu ra một Ban dự thảo để bàn bạc những điều cần thay đổi. Sau khi Nghị Viện “ưng chuẩn” rồi còn phải “đưa ra toàn dân phúc quyết”. Đó là điều mà Đảng cộng sản chưa bao giờ làm.
Khi những người cộng sản lộ diện dần trong Việt Minh và Chủ nghĩa xã hội trồi lên ở nước Việt thì Hiến Pháp 1946 bị “biển thủ”. Tuy nhiên, sự cuồng ngôn, đánh tráo khái niệm theo kiểu “cưỡng từ đoạt lý” được thể hiện trong các bản Hiến Pháp tiếp sau đó không thể làm phai mờ những giá trị hằn sâu trong hiến pháp 1946.
Đánh cắp là việc tày đình, còn mưu toan thủ tiêu nó là trọng tội. Nhưng cuối cùng những âm mưu và thủ đoạn đen tối cũng sẽ thất bại và sự thật sẽ chiến thắng . Hiến Pháp 1946 đang sáng dần lên và đã đến lúc phải được trả lại.
Đi một cung đường vòng
Sự thay đổi hiến pháp liên tục sau này cho chúng ta thấy tính chất lâm thời của chế độ. Nó “lâm thời” từ ý thức đến quyết định, từ hiến pháp đến luật…. Đảng coi Hiến Pháp là một cương lĩnh chính trị của chính mình, là một bài văn mô tả ý định của đảng mà càng đi càng thấy xa dần.
Sự lâm thời thể hiện rõ trong điều hành quốc gia khi người ta dùng “nghị quyết” chứ không phải Luật. Các Hiến Pháp sau này, như một thầy dạy môn Luật Hiến Pháp tại Trường Đại Học Luật Hà Nội, gắng uống thật say, và sau khi triết lý: “đời là cái đinh, tình là cái que” liền lảo đảo một cách đầy dũng cảm thổ lộ: “tao biết biết rõ thằng nào copy Hiến Pháp 1980 và copy từ nước nào”.
Hiến Pháp được làm ra bằng con đường copy của Liên Xô như vậy thì dĩ nhiên nó bị sửa đổi liên miên. Thay đổi này là do sự câu thúc của thực tế. Thế nhưng khi người ta đã đi lạc hướng thì cách tốt nhất là quay đầu đi lại, chứ không thể cứ sửa dần bằng cách đi uốn cong theo một đường vòng cung.
Như thế, đối với một con người là tổn thất, đối với một đất nước là sự phá sản. Nếu thay đổi dần dần và liên tục, dân chúng sẽ quên rằng, ta đang có một Hiến Pháp, một khế ước cơ bản và thiêng liêng, nghĩa là quên “sự tác thành” của một tự tình dân tộc.
Đỉnh hay đáy kim tự tháp
Hiến Pháp là linh hồn, là hơi thở trong cơ thể quốc gia, nó ghi nhận được những điều gì mà người dân mong ước nhất, là đạo luật tối cao bao trùm xuống toàn bộ quá trình làm luật và thực thi. Nó như đỉnh chiếc kim tự tháp tỏa ánh sáng xuống soi rọi các đạo luật và văn bản khác nằm trong lòng và bên dưới nó.
Thế nhưng Hiến Pháp hiện hành như một chiếc Kim tự tháp lộn ngược. Hiệu lực của Hiến Pháp teo tóp nằm trên cùng, không có ánh sáng soi rọi, phía dưới cứ phình ra nào là Luật, Pháp Lệnh, các văn bản hướng dẫn, cứ xuống mỗi cấp lại nở to ra và hiệu lực trùm lên cả Hiến Pháp.
Hãy trả lại viên ngọc trai bị đánh cắp
Có người cho rằng nên sửa Hiến Pháp 1992 theo hướng Đảng lựa chọn ra ứng cử viên và giới thiệu cho nhân dân lựa chọn thông qua trưng cầu dân ý. Điều đó khác chi “đảng cử-dân bầu” vì những kẻ độc tài đã “thành thần” trong tổ chức “trưng cầu dân ý theo ý của Đảng”.
Lại nữa, Tiến sĩ Trần Ngọc Đường làm ở Viện nghiên cứu Lập Pháp, cho rằng cần thể chế hóa thành một điều luật trong Hiến pháp về vị trí, vai trò và trách nhiệm lãnh đạo của Đảng. Thực tế Đảng CS là một tổ chức chính trị - xã hội, cho nên có quyền và nghĩa vụ như bất cứ các tổ chức nào khác và hoạt động theo quy định pháp luật không cần phải có luật riêng, nếu có thì phải nằm chung trong Luật về Hội hoặc “Luật về các Đảng phái chính trị”
Tinh thần cơ bản của Hiến Pháp đa nguyên đầu tiên (1946) phải được tôn trọng và giữ nguyên. Đảng Cộng sản đã bắt cóc và cầm tù Hiến Pháp đó, nay nó phải được tự do và trở về với dân tộc. Hiến Pháp 1946 ngắn gọn và thiêng liêng, chắt lọc được cốt cách và tinh hoa Việt Nam, vượt qua thời gian khắc nghiệt, như hòn ngọc trai kết tinh theo dòng lịch sử đầy đau thương và trắc ẩn. Cho đến ngày nay những tinh hoa ấy vẫn giữ nguyên giá trị và được nhân dân tôn trọng, tuân thủ và mong muốn được bảo tồn. Có như vậy thì pháp lý, công lý và chân lý mới hy vọng đạt được.
Luật sư. Lê Quốc Quân
Quý vị muốn tìm hiểu thêm những bài viết của Ls Lê Quốc Quân, vui lòng ghé thăm: Lê Quốc Quân Blogspot
Không có nhận xét nào: