VRNs (01.01.2014) – Sài Gòn - Giáo hội mừng kính Mẹ Thiên Chúa vào ngày đầu năm dương lịch, cũng là ngày cầu xin hòa bình cho thế giới. Mẹ luôn kỳ diệu, không ai hiểu hết tình mẫu tử. Có một sự trùng hợp kỳ lạ: Hầu như trong các ngôn ngữ, từ ngữ được dùng để gọi mẹ luôn bắt đầu bằng mẫu tự M – Mẹ (Má, Mế), Māter, Mère, Mother (Mom), Mutter, Mãe (Mamã), Madre, Màtre,…
Mẹ khởi đầu cho cuộc sống, tình yêu và hạnh phúc; Cha khởi đầu cho ý chí, niềm tin và sức mạnh. Mẹ là “nội tướng” tạo sự êm ấm trong gia đình. Người Anh có câu: “Người ta có thể mua tất cả, trừ cha mẹ”. Cha hoặc mẹ đều có vị trí và vị thế nhất định, nhưng mẹ luôn dễ gần gũi hơn. Mẹ là tất cả của cuộc đời con cái, mẹ như gà mẹ xòe cánh che chở con khỏi bị diều hâu làm hại: “Nơi ẩn náu yên ổn nhất là lòng mẹ” (Florian). Mẹ được ví von bằng những gì giản dị, gần gũi và thân thiết nhất: Vầng trăng, khúc ca dao, cổ tích, quê hương, lọn mía, nải chuối, buồng cau, tiếng dế,… Còn ca dao Việt Nam so sánh:
Mẹ già như chuối Ba Hương
Như xôi Nếp Một, như Đường Mía Lau
Mở ngoặc: Chuối Ba Hương là chuối Bà Hương. Sách Vân Đài Loại Ngữ nói là chuối ba tiêu, ở xứ Giao Châu có nhiều loại chuối, trong đó có chuối lùn (bà lùn). Từ đó nhân gian suy nghĩ thêm chuối bà lùn cùng “ruột thịt” với chuối Ba Hương và tồn tại từ buổi khê động hái lượm xứ Giao Châu. Xôi nếp một còn gọi là xôi nếp mật, người ta có món xôi mật; mía lau là một loại mía ngọt lịm, dùng để làm đường. Nói chung, đó là những thứ ngon ngọt nhất và đậm đà “chất” quê hương – vì Mẹ là Quê Hương. Ca dao Việt Nam nói:
Thương thay chín chữ cù lao
Tam niên nhũ bộ biết bao nhiêu tình
Cổ Tích Mẹ nghe mãi không chán, và cũng không sao hiểu hết. Nói đến tình mẹ thì phải nói tới trách nhiệm của người con. Những người trung niên trở lên chắc hẳn còn nhớ “Nhị Thập Tứ Hiếu” (*), đó là gương hiếu thảo của 24 người con, do Quách Cư Nghiệp kể lại. Có điều “lạ” là trong 24 hiếu tử đó, đa số lại là nam giới. Ước gì cuộc đời có thật nhiều nhưng tấm gương hiếu thảo như vậy!
Thế nhưng, trần gian vẫn có những nghịch tử bất nhân với chính mẹ mình. Một trong các nghịch tử đó là Hoàng Khắc Thắng (25 tuổi), ngụ xóm 25, xã Nghi Vạn, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An. Thắng bị bắt ngày 4-14-2013 vì tội nhẫn tâm đánh chết mẹ ruột là bà Nguyễn Thị Đấu (68 tuổi).
Nguyên nhân là tối 2-12-2013, Thắng đi làm về nhưng chưa thấy mẹ nấu cơm nên gọi hỏi mẹ. Bà Đấu bị ốm nên không dậy nấu cơm được. Nghe vậy, Thắng vừa chửi bới vừa xông vào dùng tay và dép đánh tới tấp vào người bà. Hàng xóm nghe tiếng kêu chạy sang, đập cửa nhưng Thắng không mở. Khi bị dọa báo công an, Thắng mới dừng tay. Thấy bà Đấu bị thương, hàng xóm đã gọi điện báo công an và đưa bà đi cấp cứu tại trạm y tế xã Nghi Phương. Hàng xóm còn cho biết rằng Thắng thường xuyên đánh đập mẹ, nhiều hôm bà Đấu phải trốn sang nhà hàng xóm ngủ nhờ. Thật đau lòng mẹ!
Sau một đêm cấp cứu, tình trạng bà Đấu xấu hơn nên được chuyển đến Bệnh viện Đa khoa huyện Nghi Lộc. Các bác sĩ phát hiện bà bị nhiều vết thương sưng tím bầm ở gáy, đầu, mặt và hai cánh tay. Sau hai ngày điều trị, bà Đấu đã tử vong vào sáng 4-12-2013. Nghịch tử Thắng có bị xử tử cũng không thể đền bù tội lỗi. Khốn nạn thay cho những nghịch tử như Thắng!
Mẹ luôn kỳ diệu, bí ẩn, không ai hiểu hết tình mẹ. Trong thi phẩm “Con Cò”, thi sĩ Chế Lan Viên (1920-1989) nói về tình mẫu tử: “Con dù lớn vẫn là con của mẹ, đi hết đời lòng mẹ vẫn theo con”. Thật cảm động biết bao! Cố NS Y Vân cũng trút niềm cảm phục tình mẹ qua ca khúc nổi tiếng “Lòng Mẹ” mà hầu như ai cũng đã hơn một lần ngâm nga: “Lòng mẹ bao la như biển Thái Bình dạt dào, tình mẹ tha thiết như dòng suối hiền ngọt ngào…”. Còn ca dao Việt Nam so sánh tình cha mẹ, đồng thời khuyên răn những người con:
Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Một lòng thờ mẹ, kính cha
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con
Về người mẹ trần gian, ngạn ngữ Trung Hoa xác định: “Phúc đức tại mẫu”. Quả đúng là vậy, như Đại đế Napoléon I nhận xét: “Tương lai của con là công trình của mẹ”. Vũ trụ có nhiều kỳ quan, nhưng trái tim người mẹ vẫn là kỳ quan tuyệt với nhất.
Về người mẹ tâm linh, Thánh Denis (giám mục tử đạo) nói: “Đức Mẹ là nơi nương náu của những người đã hòng hư mất, là hy vọng của những người không còn hy vọng”.
Đức Chúa phán với ông Môsê: “Hãy nói với A-ha-ron và các con nó rằng: Khi chúc lành cho con cái Ít-ra-en, anh em hãy nói thế này: Nguyện Đức Chúa chúc lành và gìn giữ anh em! Nguyện Đức Chúa tươi nét mặt nhìn đến anh em và dủ lòng thương anh em! Nguyện Đức Chúa ghé mắt nhìn và ban bình an cho anh em! Chúc như thế là đặt con cái Ít-ra-en dưới quyền bảo trợ của danh Ta, và Ta, Ta sẽ chúc lành cho chúng” (Ds 6:23-27).
Nếu chúng ta là hiếu tử thì chúng ta mới thực sự xứng đáng dâng lời cầu nguyện này: “Nguyện Chúa Trời dủ thương và chúc phúc, xin toả ánh tôn nhan rạng ngời trên chúng con, cho cả hoàn cầu biết đường lối Chúa, và muôn nước biết ơn cứu độ của Ngài” (Tv 67:2-3). Và nếu vậy, Thiên Chúa sẽ vui mừng chấp nhận!
Trong “luật tu” của mọi người, tu thân là điều tiên quyết: Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. Có tu tâm sửa tính thì mới đủ đức độ để mà “tề gia”, rồi mới có thể “trị quốc” và “bình thiên hạ”. Những người có quyền mà không có đức thì chỉ “hành” người khác và làm rối loạn xã hội. Rất nguy hiểm! Tác giả Thánh Vịnh hy vọng và cầu chúc: “Ước gì muôn nước reo hò mừng rỡ, vì Chúa cai trị cả hoàn cầu theo lẽ công minh, Người cai trị muôn nước theo đường chính trực và lãnh đạo muôn dân trên mặt đất này. Ước gì chư dân cảm tạ Ngài, lạy Thiên Chúa, chư dân phải đồng thanh cảm tạ Ngài” (Tv 67:5-6).
Chúng ta hãy đồng tâm nhất trí cầu xin: “Nguyện Chúa Trời ban phúc lộc cho ta! Ước chi toàn cõi đất kính sợ Người!” (Tv 67:8). Được như vậy thì mới là được hưởng nền hòa bình đích thực và vĩnh cửu.
Đấng Cứu Thế đã đến thế gian lần thứ nhất, Ngài sắp trở lại lần thứ nhì với tư cách Vua Công Lý. Thánh Phaolô nói: “Khi thời gian tới hồi viên mãn, Thiên Chúa đã sai Con mình tới, sinh làm con một người đàn bà, và sống dưới Lề Luật, để chuộc những ai sống dưới Lề Luật, hầu chúng ta nhận được ơn làm nghĩa tử” (Gl 4:5). Đó là đại phúc chúng ta được tận hưởng.
Đại phúc đó không mơ hồ, viễn vông, mà rất thật: “Để chứng thực anh em là con cái, Thiên Chúa đã sai Thần Khí của Con mình đến ngự trong lòng anh em mà kêu lên: ‘Áp-ba, Cha ơi!’. Vậy anh em không còn phải là nô lệ nữa, nhưng là con, mà đã là con thì cũng là người thừa kế, nhờ Thiên Chúa” (Gl 4:6-7). Chỉ là những tội nhân khốn nạn, giống như các tử tội, thế mà chúng ta lại được trắng án; và không chỉ vậy, chúng ta còn được nhận làm con và được quyền thừa kế gia sản. Sự thật mà hầu như không thể tin được, chúng ta tưởng như giữa giác mơ (Tv 126:1), nhưng đó lại là sự thật minh nhiên!
Chúng ta vừa kính mừng Chúa Con giáng sinh, hôm nay Giáo hội kính mừng Mẹ Thiên Chúa. Một “nối kế” rất lô-gích. Thánh sử Luca kể: “Các mục đồng hối hả ra đi. Đến nơi, họ gặp Cô Maria, Chú Giuse, cùng với Hài Nhi đặt nằm trong máng cỏ” (Lc 2:16). Lời kể ngắn gọn nhưng vẫn có thể phác họa “chân dung” một gia đình, trong đó có Người Mẹ, với Thánh Gia thì có Mẹ Thiên Chúa.
Thấy thế, các mục đồng liền kể lại điều đã được nói với họ về Hài Nhi này. Khi nghe các người chăn chiên thuật chuyện, ai cũng ngạc nhiên. Không “tròn mắt” sao được khi nghe những điều “khác thường” như vậy? Thánh Luca mô tả: “Còn Cô Maria thì hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng” (Lc 2:19). Đó là bản chất phụ nữ, “phong cách” của người mẹ là thế: Chịu đựng, âm thầm, lặng lẽ, khiêm nhường, dịu dàng,… Riêng các người chăn chiên, “họ ra về, vừa đi vừa tôn vinh ca tụng Thiên Chúa, vì mọi điều họ đã được mắt thấy tai nghe, đúng như đã được nói với họ” (Lc 2:20).
Kinh Thánh nói rõ: “Khi Hài Nhi được đủ tám ngày, nghĩa là đến lúc phải làm lễ cắt bì, người ta đặt tên cho Hài Nhi là Giêsu; đó là tên mà sứ thần đã đặt cho Người trước khi Người được thụ thai trong lòng mẹ” (Lc 2:21). Câu này nói về Người Con nhưng vẫn mặc nhiên nói đến Cổ Tích Mẹ, nói đến Tình Mẫu Tử, nói đến Lòng Mẹ của Đức Maria – người được vinh dự làm Mẹ Thiên Chúa.
Lạy Thiên Chúa, lại một năm nữa đi qua, và một năm mới lại bắt đầu, xin giúp chúng con biết sống đúng tinh thần yêu thương để kiến tạo hòa bình ở những nơi chúng con hiện diện, xin cho bất kỳ ai gặp chúng con cũng gặp được Ngài nơi chúng con, và họ khả dĩ nhận biết chúng con là môn đệ của Ngài. Xin Thánh Mẫu Thiên Chúa nguyện giúp cầu thay và hướng dẫn chúng con trên mọi nẻo đường trần gian đầy cạm bẫy này. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ chúng con. Amen.
TRẦM THIÊN THU
(*) 1. Ngu Thuấn (虞舜, tức vua Thuấn): hiếu cảm động trời; 2. Lưu Hằng (刘恆, tức Hán Văn Đế): người con nếm thuốc; 3. Tăng Sâm (曾参): mẹ cắn ngón tay, tim con đau xót; 4. Mẫn Tổn (闵损): nghe lời mẹ với quần áo đơn giản; 5. Trọng Do (仲由): vác gạo nuôi cha mẹ; 6. Đổng Vĩnh (董永): bán thân chôn cha; 7. Đàm Tử (郯子): cho cha mẹ bú sữa hươu; 8. Giang Cách (江革): làm thuê nuôi mẹ; 9. Lục Tích (陆绩): giấu quýt cho mẹ; 10. Đường phu nhân (唐夫人): cho mẹ chồng bú sữa; 11. Ngô Mãnh (吳猛): cho muỗi hút máu; 12. Vương Tường (王祥): nằm trên băng chờ cá chép; 13.Quách Cự (郭巨): chôn con cho mẹ; 14. Dương Hương (杨香): giết hổ cứu cha; 15. Châu Thọ Xương (朱寿昌): bỏ chức quan tìm mẹ; 16. Dữu Kiềm Lâu (庾黔娄): nếm phân lo âu; 17. Lão Lai Tử (老莱子): đùa giỡn làm vui cha mẹ; 18. Thái Thuận (蔡顺): nhặt dâu cho mẹ; 19. Hoàng Hương (黄香): quạt gối ấm chăn; 20. Khương Thi (姜诗): suối chảy, cá nhảy; 21. Vương Bầu (王裒): nghe sấm, khóc mộ; 22. Đinh Lan (丁兰): khắc gỗ thờ cha mẹ; 23. Mạnh Tông (孟宗): khóc đến khi măng mọc; 24. Hoàng Đình Kiên (黄庭坚): rửa sạch cái bô vệ sinh của mẹ.
Bài liên quan:
Xem để biết bản chất của Cộng sản
Không có nhận xét nào: