Đặc công người nhái Việt Nam |
Philippines, Việt Nam và Hoa Kỳ phải cương quyết hơn trong việc bảo vệ các vùng đặc quyền kinh tế 200 dặm trong biển Đông Nam Á, ngay cả bằng các biện pháp quân sự đơn phương. Nếu không có những phản ứng quân sự mạnh mẽ và tương ứng, buộc kinh tế của TQ phải trả giá cho những hành động phiêu lưu của nó, đơn cử là việc chiếm các đảo và bãi cạn của Philippines hay việc triển khai các giàn khoan dầu hàng tỷ USD vào sát Việt Nam, sẽ khuyến khích TQ lấn chiếm hơn nữa, làm ảnh hưởng đến uy tín của Hoa Kỳ và sẽ đến lượt các nước khác cũng phải nhượng bộ TQ.
Với quân đội nhỏ hơn nhiều so với TQ, chiến lược quân sự hay nhất cho Philippines và Việt Nam là tấn công các tài sản bán cố định của TQ trong biển Đông Nam Á, ví dụ như các giàn khoan dầu, và sử dụng các lực lượng đặc biệt như đặc công người nhái, bí mật tấn công nhưng không để lại dấu vết nhận diện, và do đó có thể chối bỏ trách nhiệm(plausible deniability).
Những nước có quân đội nhỏ hơn đương nhiên sẽ bị thất thế trong một cuộc chiến qui ước, nhưng những bất lợi đó sẽ giảm thiểu nếu họ sử dụng các đội biệt động theo kiểu chiến tranh du kích. Chiến lược này sẽ cho phép các nước nhỏ dùng hành động quân sự để chống lại sự bành trướng của TQ, nhắm vào các tài sản xâm phạm lãnh hải, nhưng lại tránh bị cuốn vào một cuộc chiến tranh qui ước. Các cuộc tấn công bằng biệt động nhắm vào tài sản của TQ ở biển Đông Nam Á như vậy có thể được thực hiện bởi bất kỳ quốc gia nào như Việt Nam, Philippines, Nhật Bản, hay Hoa Kỳ. Nếu TQ bị thiệt hại ở đó, nó sẽ phải e dè hơn ở những nơi khác.
Các hiệp ước quân sự song phương hoặc đa phương để chống lại sự bành trướng của TQ, ví dụ như giữa Philippines và Việt Nam hay với các nước khác như Nhật Bản, Malaysia, Brunei, Đài Loan và Ấn Độ, sẽ làm cho TQ nản chí trong việc trả đũa; qua đó cũng từng bước xây dựng một liên minh quân sự chính thức để bảo vệ các đường biên giới được quốc tế công nhận. Một liên minh quân sự Châu Á-Thái Bình Dương kiểu này sẽ có lợi hơn nữa khi hợp tác chặt chẽ với NATO, vì cả hai tổ chức này phải đối mặt với hai chế độ độc tài đang tìm cách mở rộng lãnh thổ. NATO cần sự giúp đỡ trong việc bảo vệ Đông Âu chống lại Nga, cũng giống như liên minh Châu Á-Thái Bình Dương cần được giúp đỡ để chống lại TQ. Hoa Kỳ rồi sẽ nhận ra lợi ích trong việc tham gia vào liên minh Châu Á-Thái Bình Dương này, nhưng các biến cố gần đây cho thấy Việt Nam và thậm chí Philippines không thể hoàn toàn dựa vào Hoa Kỳ trong việc bảo vệ lãnh thổ. Các quốc gia Châu Á-Thái Bình Dương có thể gặt hái nhiều hơn thông qua các liên minh quân sự song phương và đa phương để ngăn chặn TQ.
Philippines, Việt Nam, Nhật Bản, Malaysia, Brunei, Đài Loan và Ấn Độ, ít nhiều đều bị ảnh hưởng bởi những đòi hỏi lãnh hải bất hợp pháp của TQ. Tuy nhiên, Philippines và Việt Nam là hai nước bị mất nhiều lãnh hải nhất từ các đường vẽ bản đồ của TQ, nhưng lại không có đủ lực để chống trả lại. Với một lực lượng hải quân mạnh, Nhật Bản ở vào vị trí tốt hơn trong việc đương đầu trực tiếp với sự xâm lăng của TQ để bảo vệ các hải đảo và bãi cạn nằm xa bờ. Vì thế, TQ đã không dám vẽ ra các cấu trúc vĩnh viễn trên lãnh hải mà Nhật Bản tuyên bố chủ quyền. Việt Nam và Philippines cũng có thể bảo vệ được chủ quyền 200 dặm trong vùng đặc quyền kinh tế của mình nếu họ có những chiến lược quân sự mạnh mẽ hơn, cơ động hơn, và sáng tạo hơn để bảo vệ lãnh hải.
Philippines và Việt Nam có lợi ích kinh tế và an ninh to lớn trong việc cùng nhau củng cố phòng thủ ở những vùng biển giàu tài nguyên của họ. Biển Đông Nam Á có trữ lượng dầu từ 28-213 triệu thùng, với mức ước lượng tối đa xếp thứ ba, chỉ sau Ả Rập Saudi và Venezuela. Vùng biển này cũng có trữ lượng khí đốt tự nhiên khoảng 190 ngàn tỷ feet khối [khoảng 5,38 ngàn tỷ mét khối], tức khoảng 3% trữ lượng toàn cầu.
Các yếu tố kinh tế và an ninh của biển Đông Nam Á có tác động củng cố lẫn nhau. Việc bảo vệ những hòn đảo của Philippines và Việt Nam không chỉ có ý nghĩa bảo vệ an ninh và chủ quyền tức thời của các quốc gia này, mà nó còn có ý nghĩa kinh tế to lớn cho sự phát triển và tiếp cận với các nguồn tài nguyên trong tương lai. Các nguồn thu từ tài nguyên dầu và khí đốt sẽ có thể được dùng để tăng cường sức mạnh an ninh và quân sự cho quốc gia chiếm được chúng vào lúc này. Những mất mát về kinh tế và chính trị của việc không có hành động cụ thể sẽ là rất nghiêm trọng.
Không bảo vệ được các nguồn tài nguyên cũng có nghĩa là sẽ mất nguồn thu từ những tài nguyên đó cho Việt Nam và Philippines trong tương lai, trong khi những lợi ích đó sẽ về tay TQ. Mất biển Đông Nam Á về tay TQ cũng sẽ làm thay đổi cán cân quyền lực trong khu vực về phía TQ, nó cũng sẽ làm cho TQ cảm thấy ham muốn hơn trong việc chinh phục và gây bất ổn thêm cho khu vực châu Á-Thái Bình Dương. TQ càng mạnh hơn ở khu vực, nó sẽ càng thèm muốn việc áp đặt sức mạnh xa hơn về phía Đông, nhiều khả năng sẽ tới lượt Đài Loan, Hàn Quốc, và có thể cả việc tuần tra hải quân ở phía Đông Hawaii.
Mặc dù sẽ là tốt nhất nếu Hoa Kỳ giúp bảo vệ lãnh hải cho Philippines, nhưng người Philippines không thể dựa hoàn toàn vào điều này. Hoa Kỳ đã ký một hiệp ước quốc phòng với Philippines vào năm 1951, nhưng đã lơ là trong nghĩa vụ bảo vệ Philippines ở biển Đông Nam Á chống lại sự xâm lăng của TQ. Trong lúc TQ quân sự hoá và xây dựng các cấu trúc trên các đảo và bãi cạn trong vùng đặc quyền kinh tế của Philippines, chẳng hạn như bãi cạn Panatag, Hoa Kỳ lại đang tiến hành tập trận chung, và phát triển các thỏa thuận thương mại mới với TQ.
Hoa Kỳ đã phản ứng rất hạn chế qua những viện trợ quân sự nhỏ giọt và những phát biểu không đáng giá về việc TQ vi phạm luật pháp quốc tế. Kể từ những căng thẳng vào năm 2012, Philippines cũng không có bất kỳ một hành động quân sự có ý nghĩa nào để ngăn chặn TQ. Mặc dù quân đội Philippines không thể đến gần để đánh bại TQ trong một trận hải chiến theo quy ước, Philippines hoàn toàn có thể sử dụng lực lượng biệt hải để tấn công các cấu trúc và các tài sản của hải quân TQ ở Panatag, qua đó gây tổn thất cho cuộc xâm lăng của TQ.
Vào tháng ba, Philippines đã tiến hành các thủ tục tố tụng luật pháp quốc tế tại Tòa án trọng tài thường trực tại Hague. Nhưng TQ đã từ chối tham gia, và các thủ tục này có lẽ sẽ trì hoãn đến năm 2015. TQ đang sử dụng thời gian trì hoãn này để củng cố vị trí thực địa của nó ở các đảo tranh chấp. Mặc dù Philippines có thể sẽ thắng bằng luật pháp quốc tế, nên nhớ là các phán quyết của những quan toà quốc tế thường bị ảnh hưởng bởi các yếu tố chính trị. Những quan toà có lẽ sẽ không cảm thấy thoải mái khi đưa ra một phán quyết chống lại TQ, mà họ biết là các phán quyết đó không thể được thi hành. Những phán quyết không thể thực thi như vậy sẽ làm mất uy tín của tòa án và luật pháp quốc tế. Các chính trị gia Hoa Kỳ cũng nhận thức rằng phán quyết của tòa án sẽ không có hiệu lực, và cho đến nay không một quốc gia nào có thể bắt buộc TQ thi hành các phán quyết của toà.
Tình thế của Việt Nam ở biển Đông Nam Á thậm chí còn bấp bênh hơn Philippines. Việt Nam không có hiệp ước phòng thủ với Mỹ hay bất kỳ quân đội nào khác có khả năng đánh bại TQ. Thủ đô Hà Nội lại chỉ nằm cách biên giới với TQ trong vòng 100 dặm. Việt Nam cũng chưa kiện các yêu sách của TQ trên Biển Đông lên tòa án quốc tế. Sự thiếu vắng các phản ứng ngoại giao và quân sự mạnh mẽ của Việt Nam, để chống lại việc triển khai giàn khoan Hải Dương-981 của TQ trong vùng đặc quyền kinh tế 200 dặm vào ngày 2/5, sẽ khuyến khích TQ triển khai thêm các giàn khoan khác, có thể sẽ tới lượt lãnh hải của Malaysia, Brunei, hay Philippines.
Sự phục tùng của các nước châu Á-Thái Bình Dương trước những hà hiếp về lãnh hải của TQ có thể được giải thích bằng sức mạnh kinh tế của TQ, thể hiện trong cả các quan hệ thương mại hợp pháp và bất hợp pháp thông qua hối lộ, và sự tham nhũng của các quan chức nhà nước. TQ có lịch sử đưa hối lộ ở cả Việt Nam và Philippines, mà điển hình là vụ Tổng thống Arroyo của Philippines và chồng của bà phải vào tù từ năm 2007 vì những cáo buộc nhận hối lộ từ TQ. Các thoả thuận thương mại nhiều lợi nhuận hoặc hối lộ của TQ có lẽ đã làm cho các chính trị gia ở cả hai nước dè dặt trong việc phản ứng với các xâm lấn lãnh hải của TQ. Còn giữa Hoa Kỳ và TQ, thương mại hàng năm khoảng 562 tỉ USD, và đầu tư trực tiếp nước ngoài hai chiều hàng năm khoảng 57 tỉ, đã làm cho Hoa Kỳ phải luôn cố giảm nhẹ những căng thẳng chính trị giữa hai nước. Những lợi ích kinh tế này có lẽ sẽ luôn gây áp lực để các chính trị gia Hoa Kỳ chọn cách tiếp cận nhẹ nhàng với các hành động của TQ, ví dụ như trong vụ bê bối vào năm 1996 khi đảng Dân chủ nhận tiền đóng góp cho chiến dịch tranh cử và tư vấn chính sách từ TQ.
Bằng việc sử dụng sức mạnh kinh tế để khuyến khích các phản ứng dè dặt từ Philippines, Việt Nam và Hoa Kỳ, TQ đã tương đối dễ dàng thực hiện việc xâm lấn lãnh hải của các nước láng giềng yếu nhất của nó. Những hành động như vậy của TQ thậm chí cũng không đưa đến một đe dọa trừng phạt hay phản ứng quân sự đáng kể nào. Thay vào đó, Hoa Kỳ, Việt Nam và Philippines đã phản ứng một cách yếu ớt, với những cuộc tập trận và đối đầu hải quân tượng trưng, cũng như những hội thảo rẻ tiền về luật pháp quốc tế.
Đừng hy vọng những phản ứng yếu đuối đó sẽ ngăn được sự bành trướng của TQ. Ngay cả những phản ứng mạnh hơn nhiều còn không ngăn được việc Nga tiếp quản Crimea, trong khi Nga yếu hơn nhiều so với TQ về quân sự và sức mạnh kinh tế. Chỉ có những phản ứng quân sự mạnh mẽ mới ngăn được sự xâm lược của TQ, và đó là việc mà Hoa Kỳ, Việt Nam, và Philippines phải tính tới. Tương lai của Châu Á và danh dự của Hoa Kỳ đang bị đe dọa.
Anders Corr, Huong Mai Nguyen, và Priscilla Tacujan
Liêm Nguyễn lược dịch theo Forbes
Liêm Nguyễn lược dịch theo Forbes
Không có nhận xét nào: