Bài Giáo Lý về Mùa Chay : “Hãy để Chúa thay đổi chúng ta” - Thanh Niên Công Giáo

728x90 AdSpace

Trending
16 tháng 2, 2013

Bài Giáo Lý về Mùa Chay : “Hãy để Chúa thay đổi chúng ta”

Roma - 13.2.2013 (Zenit.org). Buổi thiết “ đại triều trước lần cuối ” của ĐGH Biển Đức XVI, 13/02/2013 Sảnh đường Phaolô VI

“Trở lại”, tức là “để cho Thiên Chúa thay đổi chúng ta, thôi nghĩ rằng chính chúng ta là những người duy nhất xây dựng cuộc sống của mình”, ĐGH Biển Đức XVI giải thích bằng cách viện dẫn các tấm gương như Pavel Florensky, Etty Hillesum, Dorothy Day.

Đức Giáo Hoàng đã dành bài giáo lý ngày thứ tư trước lần cuối này của ngài cho sự dẫn nhập vào tính thiêng liêng của Mùa Chay.

“ĐGH Biển Đức XVI đã phán trong diễn từ bằng tiếng Ý, “Trở lại”, một lời mời gọi mà chúng ta sẽ nghe nhắc lại thường xuyên trong Mùa Chay, có nghĩa là theo Đức Giêsu hầu cho Tin Mừng hướng dẫn cụ thể cuộc đời chúng ta ; điều này có nghĩa là để cho Thiên Chúa cải đổi chúng ta, thôi nghĩ rằng chính chúng ta mới là những người duy nhất xây dựng cuộc sống của mình ; điều này có nghĩa là thừa nhận rằng chúng ta chỉ là tạo vật, rằng chúng ta lệ thuộc vào Thiên Chúa, vào tình yêu của Ngài, và rằng chỉ khi “mất đi” sự sống nơi Ngài, chúng ta mới thực sự có lại được sự sống của chúng ta."

Bài giáo lý của ĐGH Biển Đức XVI bằng tiếng Ý, bản dịch toàn văn

Anh chị em thân mến,

Hôm nay, Thứ Tư Lễ Tro, chúng ta bắt đầu thời gian phụng vụ của Mùa Chay, 40 ngày để chuẩn bị chúng ta mừng lễ Phục Sinh : đây là thời gian dấn thân cách riêng trên hành trình thiêng liêng của chúng ta. Con số 40 đã nhiều lần trở lại trong Thánh Kinh. Nó nhắc nhở chúng ta cách riêng, như chúng ta đã biết, về 40 năm dòng dã, dân chúng Israel đã lang thang trong sa mạc ; một giai đoạn dài rèn luyện để trở thành dân Chúa, nhưng cũng là một giai đoạn dài của sự hiện diện cám dỗ phản bội giao ước với Thiên Chúa. 40 cũng là số năm mà ngôn sứ Ê-lia đã phải miệt mài để tìm lên Núi Orép, núi Thiên Chúa ; cũng như thời gian Chúa Giêsu đã trải qua trong sa mạc trước khi bắt đầu cuộc đời công cộng của Ngài và cũng là nơi Ngài đã bị ma quỷ cám dỗ. Trong bài giáo lý hôm nay, tôi chính xác muốn dừng lại trên quãng thời gian này trong cuộc đời trần thế của Con Thiên Chúa, mà chúng ta sẽ nghe đọc trong bài Phúc Âm Chúa Nhật tới đây.

Trước hết, sa mạc, nơi Chúa Giêsu lui vào, là một nơi im lặng, nghèo khó, nơi mà con người bị mất đi các nâng đỡ vật chất và phải đối mặt với những nhu cầu cơ bản của cuộc sống, là nơi mà con người bị dồn đến chỉ còn cái gì là cốt yếu và chính vì thế mà con người dễ dàng có thể gặp gỡ Thiên Chúa. Nhưng sa mạc cũng là nơi chốn của sự chết, bởi vì ở đâu không có nước, thì ở đó cũng không có sự sống, và chính đó là nơi cô đơn, nơi mà cám dỗ dễ cảm nhận mãnh liệt nhất đối với con người. Chúa Giêsu đi vào sa mạc, và nơi đó, Ngài đã bị cám dỗ rời bỏ con đường do Chúa Cha đã vạch ra để đi theo những con đường khác dễ dàng hơn và thế gian hơn (x. Lc 4, 1-13). Như thế, Ngài đã gánh vác cám dỗ cho chúng ta, Ngài gánh nhận sự khốn khổ của chúng ta, để chiến thắng Ác Thần và mở ra cho chúng ta con đường dẫn đến Thiên Chúa, con đường trở lại.

Suy ngẫm về những cám dỗ Chúa Giêsu đã chịu trong sa mạc là một lời mời gọi, đối với mỗi người trong chúng ta, hãy trả lời cho một câu hỏi căn bản : Cái gì là thực sự đáng kể trong cuộc đời chúng ta ? Trong cơn cám dỗ đầu, ma qủy đề nghị Chúa Giêsu biến đá sỏi thành bánh ăn để đỡ đói. Chúa Giêsu đối đáp lại rằng, con người cũng sống vì bánh, nhưng không chỉ sống vì bánh : không có câu trả lời cho cái đói sự thật, cái đói Thiên Chúa, con người không thể được cứu rỗi (x. Lc 4, 3-4). Trong cơn cám dỗ thứ nhì, ma quỷ đề nghị với Chúa Giêsu con đường quyền lực : nó đưa Ngài lên cao hơn và hứa cho người sự thống thị hoàn cầu ; nhưng đó không phải là con đường của Thiên Chúa ; thật rõ ràng là theo Chúa Giêsu thì không phải quyền lực thế gian có thể cứu rỗi thế giới, mà là quyền lực của Thánh Giá, của khiêm nhường, của tình yêu (x. Lc 4 5-8). Trong cơn cám dỗ thứ ba, ma quỷ đề nghị với Chúa Giêsu gieo mình từ nóc Đền Thờ Giêrusalem xuống để được Thiên Chúa cứu, nhờ các Thiên Thần, nghĩa là làm một điều phi thường để thách đố Thiên Chúa ; nhưng câu trả lời là Thiên Chúa không phải là đồ vật mà người ta có thể áp đặt điều kiện : Ngài là Chúa Tể tất cả (x. Lc 4, 9-12). Cốt lõi ba cơn cám dỗ mà Chúa Giêsu phải chịu là gì ? Đó là đề nghị thao túng Thiên Chúa, sử dụng Ngài cho quyền lợi riêng mình, cho vinh hiển riêng mình và cho thành công của riêng mình. Và như vậy, trên thực tế, muốn ngồi vào chỗ của Thiên Chúa, bằng cách loại bỏ Ngài ra khỏi đời sống của mình và làm như Ngài chỉ là phù phiếm. Mỗi người vì thế phải tự hỏi : Thiên Chúa ở chỗ nào trong đời sống của tôi ? Có phải Ngài là Chúa, hay tôi mới là Chúa ?

Vượt thắng cám dỗ bắt Thiên Chúa phục tùng mình, phục tùng các quyền lợi của mình hay là nhét Ngài vào một góc và trở lại với con đường chính đáng của trật tự thứ bậc, dành cho Thiên Chúa vị trí đầu hết, là con đường mà mọi người Kitô hữu luôn phải bắt đầu đi trở lại. “Trở Lại”, một lời mời gọi mà chúng ta sẽ thường hay nghe trong Mùa Chay, có nghĩa là đi theo Chúa Giêsu để cho Phúc Âm của Ngài hướng dẫn cụ thể cuộc đời chúng ta ; điều này mang ý nghĩa để Thiên Chúa cải đổi chúng ta, thôi không còn nghĩ rằng chính chúng ta mới là những người duy nhất xây dựng cuộc sống của chúng ta ; điều này mang ý nghĩa thừa nhận rằng chúng ta là những tạo vật, rằng chúng ta lệ thuộc Thiên Chúa, lệ thuộc tình yêu của Ngài, và rằng chỉ khi “mất đi” sự sống nơi Ngài, chúng ta mới thực sự có lại được sự sống của chúng ta. Điều này đòi hỏi tiến hành lựa chọn dưới sự soi sáng của Lời Chúa. Ngày nay, người ta không còn có thể là Kitô hữu chỉ vì mình đang sống trong một xã hội có những nguồn gốc Kitô giáo : Kể cả người sinh ra trong một gia đình Kitô giáo và đã nhận được một nền giáo dục Kitô giáo, cũng phải mỗi ngày mỗi nhắc lại sự lựa chọn làm người Kitô hữu, nghĩa là dành cho Thiên Chúa vị trí đầu hết, trước những cám dỗ thường xuyên của một nền văn hóa thế tục, trước sự xét đoán bài bác của nhiều người đương thời.

Quả vậy, các thử thách mà xã hội đặt ra cho người Kitô hữu thì nhiều, và nó liên quan đến đời sống cá nhân và xã hội. Thật là không dễ để trung thành với hôn nhân Kitô giáo, để thực hiện lòng thương xót trong đời sống hàng ngày, để có được một không gian cầu nguyện và thinh lặng nội tâm ; thật không dễ để công khai chống lại những lựa chọn mà nhiều người coi như đương nhiên, như phá thai trong trường hợp có thai ngoài ý muốn, trợ tử trong trường hợp bệnh nan y, hay lựa chọn bào thai để ngăn chặn một vài bệnh di truyền. Cám dỗ đặt đức tin sang một bên luôn hiện diện và sự trở lại trở thành một lời đáp trả với Thiên Chúa, lời đáp trả cần phải được xác nhận nhiều lần trong cuộc sống.

Chúng ta có những tấm gương và một sự động viên trong những cuộc trở lại vĩ đại như sự trở lại của Thánh Phaolô trên đường Damas, hay của thánh Augustinô, nhưng ngay cả trong thời đại chúng ta, thời đại đang che khuất sự thánh thiêng, Ơn Chúa vẫn tác động và đã làm nên những kỳ công trong cuộc đời của bao người. Chúa không hề nản lòng gõ cửa con người trong những bối cảnh xã hội và văn hóa mà bề ngoài có vẻ chìm đắm trong tục hóa, như đã xảy ra cho vị linh mục Chính Thống Giáo Nga, Pavel Florensky. Sau một chương trình giáo dục hoàn toàn mang tính bất khả tri, đến độ ông đã cảm thấy một sự thù nghịch với giáo huấn tôn giáo ở học đường, thế mà nhà bác học Florensky đã từng thốt lên : “ Không, người ta không thể sống không có Thiên Chúa ! ” và đã thay đổi hoàn toàn cuộc đời của mình, đến độ trở thành một tu sĩ dòng.

Tôi cũng nghĩ đến hình ảnh chị Etty Hillesum, một phụ nữ trẻ người Hà Lan, gốc Do Thái đã bỏ mình ở trại hỏa thiêu Auschwitz. Lúc đầu xa rời Thiên Chúa, cô đã khám phá ra Ngài khi nhìn vào sâu thẳm trong tâm hồn và viết : “Trong tôi có một cái giếng sâu. Và trong cái giếng đó, có Thiên Chúa. Đôi khi, tôi đến được với Ngài, nhưng thường thì đá và cát đã che phủ Ngài : như vậy Thiên Chúa bị chôn vùi. Tôi lại phải đào Ngài lên” (Nhật ký, 97). Trong cuộc sống bị phân tán và đầy lo sợ của chị, chỉ đã tìm được Thiên Chúa chính lại là ở giữa tấn thảm kịch to lớn nhất thế kỷ XX, Đại Nạn Shoah. Người phụ nữ trẻ này mỏng manh và chưa thỏa lòng, được chuyển biến bởi đức tin, đã biến thành một người đàn bà đầy tình yêu và bình an trong tâm hồn, có khả năng khẳng định : “Tôi hằng sống trong sự mật thiết với Thiên Chúa”.

Một người đàn bà khác cũng cùng thời đại với chúng ta, Dorothy Day, đã làm chứng khả năng của bà chống lại những chủ thuyết lừa mị của thời bà để lựa chọn đi tìm sự thật và mở lòng ra với sự khám phá đức tin. Trong bài tự thuật của bà, bà công khai thú nhận đã sa chước cám dỗ giải quyết mọi việc bằng chính trị, bằng cách tham gia vào đề nghị Mác-xít : “Tôi đã muốn đi cùng với những người biểu tình, vào tù, viết lách, ảnh hưởng người khác và để lại giấc mộng của tôi cho thế giới. Biết bao tham vọng và biết bao tìm kiếm bản thân đã được đầu tư vào tất cả những chuyện đó !”. Con đường của bà tới đức tin, trong một môi trường tục hóa đến thế, quả là rất khó khăn, nhưng ơn phúc cũng tác động không kém, như bà đã đích thân nhấn mạnh : “Chắc chắn là tôi đã cảm thấy nhu cầu đi nhà thờ nhiều hơn, quỳ gối, cúi đầu cầu nguyện. Một bản tính mù quáng, có thể nói như vậy, bởi vì tôi đã không ý thức được rằng mình cầu nguyện. Nhưng tôi đã đi nhà thờ, tôi hội nhập vào cái bầu không khí cầu nguyện này…”. Thiên Chúa đã dẫn đưa bà đến sự gia nhập có ý thức vào Giáo Hội, vào một cuộc đời dâng hiến cho những người khốn khó.

Ở thời đại chúng ta, có nhiều những cuộc trở lại được hiểu như một sự quay lại của một người nào đó, sau một quá trình giáo dục Kitô giáo có lẽ hời hợt, đã rời xa đức tin và rồi đã tìm lại được Đức Kitô và Phúc Âm của Ngài. Trong sách Khải Huyền, người ta đã đọc : “Này đây, Ta đứng trước cửa và gõ. Ai nghe tiếng Ta và mở cửa, thì Ta sẽ vào nhà người ấy, sẽ dùng bữa với người ấy, Ta gần với người ấy và người ấy gần với Ta” (Kh 3, 20). Con người nội tâm của chúng ta phải dọn mình để được Thiên Chúa viếng thăm, và chính là vì chuyện này mà con người không được để xâm chiếm bởi những ảo ảnh, những phiếm diện, những vật chất.

Vào Mùa Chay này, trong Năm Đức Tin, chúng ta hãy nhắc lại sự dấn thân của chúng ta trên con đường trở lại, để vượt lên khỏi khuynh hướng tự khép kín và để, trái lại, dành không gian cho Thiên Chúa, bằng cách nhìn vào thực tế hàng ngày với con mắt của mình. Chọn lựa giữa sự đóng kín của ích kỷ và sự mở ra với tình yêu của Thiên Chúa và tha nhân tương ứng, chúng ta có thể nói, với chọn lựa của những cám dỗ của Chúa Giêsu : Nghĩa là chọn lựa giữa quyền lực con người và tình yêu của Thánh Giá, giữa một sự cứu thoát chỉ nhìn trong sự sung túc vật chất và một sự cứu chuộc vốn là công trình của Thiên Chúa, mà chúng ta phải dành ưu tiên tuyệt đối trong cuộc sống chúng ta. Trở lại có nghĩa là không khép kín trong việc tìm kiếm thành công cho riêng mình, tìm kiếm vinh hiển cho riêng mình, tìm kiếm địa vị cho riêng mình, mà làm sao để mỗi ngày trong những chuyện nhỏ, sự thật, đức tin vào Thiên Chúa và tình yêu trở nên cái điều quan trọng nhất. Cảm ơn.

© Libreria Editrice Vaticana
Traduction de Zenit: Hélène Ginabat
Bản dịch tiếng Việt : Mạc Khải
© Copyright 2013 - Libreria Editrice Vaticana
Nguồn: http://www.vatican.va/holy_father/benedict_xvi/audiences/2013/documents/hf_ben-xvi_aud_20130213_fr.htmlhttp://www.vatican.va/holy_father/benedict_xvi/audiences/2013/documents/hf_ben-xvi_aud_20130213_fr.html
Bài Giáo Lý về Mùa Chay : “Hãy để Chúa thay đổi chúng ta” Reviewed by Răng Ra Ri on 2/16/2013 Rating: 5 Roma - 13.2.2013 ( Zenit.org ). Buổi thiết “ đại triều trước lần cuối ” của ĐGH Biển Đức XVI, 13/02/2013 Sảnh đường Phaolô VI “Trở lạ...

Không có nhận xét nào: