Phạm Đình Trọng, Bửu Đoàn - 5.8.2013: Chủ nhật 4/8/2013, lịch ta là ngày 28/6. Quí Tị, anh Trần Hải và chị Khánh Trâm, con trai và con dâu út của danh tướng Trần Độ ở Sài Gòn làm giỗ cha lần thứ mười một. Danh tướng Trần Độ mất ngày 1/7 năm Nhâm Ngọ, theo lịch mặt trời là ngày 9/8/2002, đúng giỗ phải là thứ tư tuần tới. Chọn ngày chủ nhật làm giỗ là sớm mấy ngày để chính giỗ, mẹ và mấy anh trai sẽ đón vong linh danh tướng ra Hà Nội.
Khi thiếu tướng Trần Độ làm chính ủy quân khu Tả Ngạn thì tôi còn là học trò trung học ở thành phố Hải Phòng thuộc lãnh thổ quân khu Tả Ngạn. Bài viết “Anh Bộ Đội” của ông đăng trên các báo, đọc trên đài phát thanh ngày ấy đã tạo nên một đợt thảo luận sôi nổi kéo dài trong thanh niên học sinh về cuộc sống đẹp đẽ của anh bộ đội, về môi trường giáo dục, rèn luyện cho tuổi trẻ như một trường đại học, trường đại học quân đội, mang lại một lí tưởng thẩm mĩ cao cả, mở ra một hướng vào đời rộng rãi cho tuổi trẻ.
Khi tướng Trần Độ là Phó Chính ủy quân Giải phóng miền Nam thì tôi là sĩ quan thông tin ở mặt trận Tây Nguyên. Những bài chính luận quân sự của Cửu Long, sau này tôi mới biết Cửu Long chính là Trần Độ, phân tích thế và lực của ta và địch, thế tất thắng của chiến tranh cách mạng được giọng hào sảng của phát thanh viên Việt Khoa đọc trên đài Tiếng nói Việt Nam phát đi từ Hà Nội đã làm nức lòng hết thảy đám lính tráng sốt rét và đói ăn dưới tán lá rừng già vùng ngã ba biên giới Việt – Miên – Lào. Với những sĩ quan đã có vốn hiểu biết về quân sự và thực tế chiến tranh thì những bài viết của Cửu Long – Trần Độ là lí luận của niềm tin chiến thắng.
Khi trung tướng Trần Độ là Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị, rồi Trưởng ban Văn hóa Văn nghệ trung ương thì tôi cùng 22 sĩ quan từ khắp các đơn vị trong quân đội được Tổng cục Chính trị gọi về cử đi học khóa I trường Viết Văn Nguyễn Du lần đầu tiên có hệ đại học. Tôi vẫn nhớ lần ông đến trường Viết Văn Nguyễn Du gặp chúng tôi, ông nói rất ngắn: Văn nghệ không có tự do thì không thể sáng tạo, chỉ là văn nghệ tuyên truyền, văn nghệ diễn ca nghị quyết đảng. Rồi ông dành cả buổi lắng nghe và ghi chép những điều chúng tôi giãi bày về khó khăn, cản trở trong công việc viết lách.
Khi tướng Trần Độ, chính khách Trần Độ rời chính trường thì tôi cũng rời quân ngũ, vào miền Nam làm báo dân sự. Tóm lại thời tôi làm lính là thời Trần Độ làm tướng, là thời lừng lẫy của danh tướng Trần Độ. Tôi là lính ở mặt trận phía Nam thì ông là tướng chỉ huy cả mặt trận miền Nam. Tôi là lính văn nghệ thì ông là tướng văn nghệ. Dù mang cấp hàm tướng suốt mấy chục năm trời nhưng những lần gặp ông ngoài đời, tôi chỉ thấy ông mặc đồ dân sự xuềnh xoàng.
Là một người lính, hôm nay tôi về nơi giọt máu vị tướng để lại cho đời, tưởng nhớ đến vị tướng của tôi, vị tướng Nam chinh Bắc chiến, người chỉ huy đội quân cách mạng đi từ trận đánh của trung đoàn Thủ đô 60 ngày đêm cầm cự giữ chân quân Pháp trong lòng đường phố Hà Nội để Chính phủ kháng chiến rút lui an toàn về đất căn cứ Việt Bắc, đến trận đánh của những sư đoàn lớn mạnh 56 ngày đêm dội bão lửa xuống lòng chảo Mường Thanh làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ. Đi từ trận chống càn Junction City đầu mùa mưa năm 1967, từ vị Tư lệnh đến anh lính nuôi quân của Sở Chỉ huy quân Giải phóng miền Nam đều phải cầm súng AK, súng B40, chống trả đánh lui hết đợt càn quét này đến trận đột kích khác của hơn 30 ngàn quân Mĩ cùng xe tăng, xe bọc thép nhiều như lá rừng, ròng rã suốt 53 ngày đêm, bảo toàn cơ quan lãnh đạo kháng chiến miền Nam, đến trận đánh cuối cùng, đại quân từ bốn hướng ào ào tiến vào Sài Gòn mùa xuân 1975.
Hơn cả những chiến công trên mặt trận quân sự, Trần Độ còn là vị tướng từng trải, lịch lãm của đội quân chữ nghĩa, vị tướng nhân văn, gần gũi của đội quân văn nghệ sĩ, một tâm hồn tinh tế, nhạy cảm với cái đẹp, với cái mới.
Trần Độ còn là vị tướng quả cảm đi đầu mở lối cho dân tộc Việt Nam thoát khỏi chủ nghĩa Mác Lê nin lần lạc và tội lỗi. Tưởng là chủ nghĩa Mác Lê nin sẽ xóa bỏ những cái ác ở trên đời, không ngờ chính chủ nghĩa Mác Lê nin lại là cái ác nghiệp chướng buộc vào dân tộc Việt Nam. Đến lúc nhận ra: Những mơ xóa ác ở trên đời / Ta phó thân ta với đất trời / Ngỡ ác xóa rồi thay cực thiện / Ai hay biến hóa ác luân hồi (Thơ Trần Độ), dù tuổi đã cao lại mang bệnh hiểm ông vẫn quyết liệt và kiên trì chỉ ra cái ác, thức tỉnh những kẻ đang cố kết làm điều ác với Dân với nước.
Mươi người chúng tôi, Phan Đắc Lữ, Lê Phú Khải, Kha Lương Ngãi, Vũ Trọng Khải, Phạm Đình Trọng, Nguyễn Thị Mai Oanh ở Sài Gòn, giáo sư Nguyễn Huệ Chi từ Hà Nội vào, tiến sĩ Nguyễn Hữu Liêm từ Mĩ về cùng vợ chồng anh chị Trần Hải – Khánh Trâm ngồi ở phòng khách mắt nhìn lên ảnh vị danh tướng trong bộ đồ dân sự bình dị không sao, không vạch, không cành nguyệt tuế, không huân chương, huy chương. Mỗi người chúng tôi đều có những chuyện kể, những điều nói về vị danh tướng mà mình kính trong. Anh Lê Phú Khải kể năm 1985 anh gặp tướng Trần Độ ở Tiền Giang, khi vị tướng đã chuyển sang cơ quan lập pháp, làm Phó Chủ tịch Quốc hội, anh đọc cho vị tướng có tâm hồn nghệ sĩ nghe bài thơ anh mới viết về Lăng Hồ Chí Minh. Cuối bài thơ anh viết: Đắp cho Con Người này nấm mộ / Bên một cánh rừng có tiếng thông reo / Để nhà thơ được nghe gió hát / Và Nhân Dân tìm gặp / Như con về thăm cha. Lê Phú Khải vừa dứt lời đọc thơ, Trần Độ nói ngay: Cậu phải sửa lại câu cuối cùng là: Như cha về thăm con. Với bất kì cá nhân nào dù vĩ đại đến đâu, Nhân Dân bình dị cũng là cha mẹ của cá nhân dù vĩ đại đó.
Khi thiếu tướng Trần Độ làm chính ủy quân khu Tả Ngạn thì tôi còn là học trò trung học ở thành phố Hải Phòng thuộc lãnh thổ quân khu Tả Ngạn. Bài viết “Anh Bộ Đội” của ông đăng trên các báo, đọc trên đài phát thanh ngày ấy đã tạo nên một đợt thảo luận sôi nổi kéo dài trong thanh niên học sinh về cuộc sống đẹp đẽ của anh bộ đội, về môi trường giáo dục, rèn luyện cho tuổi trẻ như một trường đại học, trường đại học quân đội, mang lại một lí tưởng thẩm mĩ cao cả, mở ra một hướng vào đời rộng rãi cho tuổi trẻ.
Khi tướng Trần Độ là Phó Chính ủy quân Giải phóng miền Nam thì tôi là sĩ quan thông tin ở mặt trận Tây Nguyên. Những bài chính luận quân sự của Cửu Long, sau này tôi mới biết Cửu Long chính là Trần Độ, phân tích thế và lực của ta và địch, thế tất thắng của chiến tranh cách mạng được giọng hào sảng của phát thanh viên Việt Khoa đọc trên đài Tiếng nói Việt Nam phát đi từ Hà Nội đã làm nức lòng hết thảy đám lính tráng sốt rét và đói ăn dưới tán lá rừng già vùng ngã ba biên giới Việt – Miên – Lào. Với những sĩ quan đã có vốn hiểu biết về quân sự và thực tế chiến tranh thì những bài viết của Cửu Long – Trần Độ là lí luận của niềm tin chiến thắng.
Khi trung tướng Trần Độ là Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị, rồi Trưởng ban Văn hóa Văn nghệ trung ương thì tôi cùng 22 sĩ quan từ khắp các đơn vị trong quân đội được Tổng cục Chính trị gọi về cử đi học khóa I trường Viết Văn Nguyễn Du lần đầu tiên có hệ đại học. Tôi vẫn nhớ lần ông đến trường Viết Văn Nguyễn Du gặp chúng tôi, ông nói rất ngắn: Văn nghệ không có tự do thì không thể sáng tạo, chỉ là văn nghệ tuyên truyền, văn nghệ diễn ca nghị quyết đảng. Rồi ông dành cả buổi lắng nghe và ghi chép những điều chúng tôi giãi bày về khó khăn, cản trở trong công việc viết lách.
Khi tướng Trần Độ, chính khách Trần Độ rời chính trường thì tôi cũng rời quân ngũ, vào miền Nam làm báo dân sự. Tóm lại thời tôi làm lính là thời Trần Độ làm tướng, là thời lừng lẫy của danh tướng Trần Độ. Tôi là lính ở mặt trận phía Nam thì ông là tướng chỉ huy cả mặt trận miền Nam. Tôi là lính văn nghệ thì ông là tướng văn nghệ. Dù mang cấp hàm tướng suốt mấy chục năm trời nhưng những lần gặp ông ngoài đời, tôi chỉ thấy ông mặc đồ dân sự xuềnh xoàng.
Là một người lính, hôm nay tôi về nơi giọt máu vị tướng để lại cho đời, tưởng nhớ đến vị tướng của tôi, vị tướng Nam chinh Bắc chiến, người chỉ huy đội quân cách mạng đi từ trận đánh của trung đoàn Thủ đô 60 ngày đêm cầm cự giữ chân quân Pháp trong lòng đường phố Hà Nội để Chính phủ kháng chiến rút lui an toàn về đất căn cứ Việt Bắc, đến trận đánh của những sư đoàn lớn mạnh 56 ngày đêm dội bão lửa xuống lòng chảo Mường Thanh làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ. Đi từ trận chống càn Junction City đầu mùa mưa năm 1967, từ vị Tư lệnh đến anh lính nuôi quân của Sở Chỉ huy quân Giải phóng miền Nam đều phải cầm súng AK, súng B40, chống trả đánh lui hết đợt càn quét này đến trận đột kích khác của hơn 30 ngàn quân Mĩ cùng xe tăng, xe bọc thép nhiều như lá rừng, ròng rã suốt 53 ngày đêm, bảo toàn cơ quan lãnh đạo kháng chiến miền Nam, đến trận đánh cuối cùng, đại quân từ bốn hướng ào ào tiến vào Sài Gòn mùa xuân 1975.
Hơn cả những chiến công trên mặt trận quân sự, Trần Độ còn là vị tướng từng trải, lịch lãm của đội quân chữ nghĩa, vị tướng nhân văn, gần gũi của đội quân văn nghệ sĩ, một tâm hồn tinh tế, nhạy cảm với cái đẹp, với cái mới.
Trần Độ còn là vị tướng quả cảm đi đầu mở lối cho dân tộc Việt Nam thoát khỏi chủ nghĩa Mác Lê nin lần lạc và tội lỗi. Tưởng là chủ nghĩa Mác Lê nin sẽ xóa bỏ những cái ác ở trên đời, không ngờ chính chủ nghĩa Mác Lê nin lại là cái ác nghiệp chướng buộc vào dân tộc Việt Nam. Đến lúc nhận ra: Những mơ xóa ác ở trên đời / Ta phó thân ta với đất trời / Ngỡ ác xóa rồi thay cực thiện / Ai hay biến hóa ác luân hồi (Thơ Trần Độ), dù tuổi đã cao lại mang bệnh hiểm ông vẫn quyết liệt và kiên trì chỉ ra cái ác, thức tỉnh những kẻ đang cố kết làm điều ác với Dân với nước.
Mươi người chúng tôi, Phan Đắc Lữ, Lê Phú Khải, Kha Lương Ngãi, Vũ Trọng Khải, Phạm Đình Trọng, Nguyễn Thị Mai Oanh ở Sài Gòn, giáo sư Nguyễn Huệ Chi từ Hà Nội vào, tiến sĩ Nguyễn Hữu Liêm từ Mĩ về cùng vợ chồng anh chị Trần Hải – Khánh Trâm ngồi ở phòng khách mắt nhìn lên ảnh vị danh tướng trong bộ đồ dân sự bình dị không sao, không vạch, không cành nguyệt tuế, không huân chương, huy chương. Mỗi người chúng tôi đều có những chuyện kể, những điều nói về vị danh tướng mà mình kính trong. Anh Lê Phú Khải kể năm 1985 anh gặp tướng Trần Độ ở Tiền Giang, khi vị tướng đã chuyển sang cơ quan lập pháp, làm Phó Chủ tịch Quốc hội, anh đọc cho vị tướng có tâm hồn nghệ sĩ nghe bài thơ anh mới viết về Lăng Hồ Chí Minh. Cuối bài thơ anh viết: Đắp cho Con Người này nấm mộ / Bên một cánh rừng có tiếng thông reo / Để nhà thơ được nghe gió hát / Và Nhân Dân tìm gặp / Như con về thăm cha. Lê Phú Khải vừa dứt lời đọc thơ, Trần Độ nói ngay: Cậu phải sửa lại câu cuối cùng là: Như cha về thăm con. Với bất kì cá nhân nào dù vĩ đại đến đâu, Nhân Dân bình dị cũng là cha mẹ của cá nhân dù vĩ đại đó.
Không có nhận xét nào: