Thân xác và phái tính - Thanh Niên Công Giáo

728x90 AdSpace

Trending
9 tháng 3, 2012

Thân xác và phái tính

GHXHCG - Nhờ thân xác con người tiếp xúc với tha nhân và vũ tru.. Ở đây chúng tôi muốn tiếp tục bàn về một đặc tính của thân xác đó là phái tính. Nhờ thân xác mà con người mang một phái tính, nam hay nữ; tuy nhiên phái tính không chỉ liên quan đến thân thể mà thôi nhưng còn ảnh hưởng đến tinh thần nữa. Trước khi đi sâu vào vấn đề, thiết tưởng cần lưu ý đến việc dịch thuật từ ngữ.

Danh từ sexuality (tiếng Anh; sexualite tiếng Pháp) được hiểu và được chuyển dịch sang tiếng Việt bằng nhiều từ.

- Có khi được hiểu như là đặc tính nam nữ của con người và được dịch là: phái hoặc giới (nam nữ, hay có khi gọi nôm na là giống: đực hay cái) 90.

- Có khi được hiểu như là việc giao hợp nam nữ (tiếng Anh gọi tắt là sex), và được dịch là giới tính (hoặc tính dục) và khi trái nghịch với luân lý thì gọi là tình dục, dâm dục, dâm ô.

Như vậy, cùng một từ ngữ sexuality (tiếng Anh hoặc sexualité tiếng Pháp) nhưng có thể hiểu theo hai nghĩa: “phái tính” hay “giới tính” (tính dục). Mỗi nghĩa mang theo một lịch sử riêng của nó.

1/ Phái tính. Nhân loại gồm có hai phái nam nữ. Trên thực tế, phái nữ bị lép vế do não trạng “trọng nam khinh nữ”, như còn ghi lại trong một câu tục ngữ bên Đông phương “Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô”. Câu chuyện phái tính trở nên đầu đề cho cuộc tranh đấu của phong trào “nữ quyền” (feminism), đòi hỏi cho nữ giới cũng được bình quyền với nam giới. Vấn đề trở thành gai góc khi đi vào cụ thể: bình quyền theo nghĩa nào? Phải chăng chỉ là bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ công dân, hoặc là trong tất cả mọi lãnh vực, từ vai trò trong hôn nhân gia đình cho đến các chức vụ xã hội? Phải chăng cần phải xóa bỏ sự khác biệt giới tính để diệt trừ sự bất bình đẳng?

2/ Giới tính. Thuật ngữ “cuộc cánh mạng giới tính” (sexual revolution) được lưu hành trong khoảng thập niên 60 của thế kỷ XX, với nhiều ý nghĩa khác nhau. Trên phương diện pháp lý, các sách báo phim ảnh về tính dục được tự do lưu hành, không còn bị kiểm duyệt hoặc trừng phạt về tội “dâm ô”. Trên phương diện xã hội, phong trào “tự do luyến ái” cổ động xoá bỏ những ngăn cấm của luân lý hoặc tục lệ liên quan đến tính dục (nam nữ có thể ăn nằm với nhau trước hôn nhân hoặc ngoài hôn nhân) cũng như cổ động sử dụng các phương pháp ngừa thai, phá thai.

Tuy rằng hai ý nghĩa vừa rồi thường được sử dụng trà trộn với nhau, nhưng chúng ta nên phân biệt để hiểu rõ hơn bản chất của chúng.

I. Phái tính


Ngay từ những trang đầu, Kinh thánh đã nói đến sự hiện diện của hai phái nam nữ; hay nói đúng hơn, con người được Thiên Chúa tạo dựng nên như người nam hoặc người nữ. Phái tính gắn liền với bản tính con người.

A. Từ khác biệt đến bất bình đẳng


Kinh thánh khẳng định sự kiện của phái tính nơi con người, nhưng không cung cấp những phân tích tỉ mỉ về phái tính như khoa học nhân văn hiện đại: cái gì làm nên nam tính? Cái gì làm nên nữ tính?

Kinh thánh không những nhìn nhận sự hiện hữu của hai phái trong chương trình của Đấng Tạo hóa, nhưng còn khẳng định sự bình đẳng giữa hai phái. Theo sách Sáng thế (1,26-27) Thiên Chúa đã tạo dựng con người “cả nam cả nữ” theo hình ảnh của Ngài. Điều này xác nhận không những là sự bình đẳng giữa nam và nữ xét theo phẩm tính (hình ảnh Thiên Chúa) nhưng còn khẳng định rằng sự khác biệt phái tính đã nằm trong chương trình tạo dựng ngay từ ban đầu. Trình thuật thứ hai về tạo dựng nhân loại ở chương 2 của sách Sáng thế (2,20), tuy nói đến bà Evà được dựng nên sau ông Ađam, nhưng đã nhìn nhận cho bà sự ngang hàng cùng với mối tương quan cần thiết, bởi vì ông đã thốt lên khi gặp bà: “đây là xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi”. Nam nữ cần phải sống trong tương quan với nhau.

Tuy nhiên, chưa rõ vì lý do gì dần dần nảy ra sự bất bình đẳng giữa hai phái nam nữ ngay cả trước mặt Chúa. Trong dân Israel, duy chỉ có người nam mới chịu cắt bì, một dấu hiệu thuộc về dân Thiên Chúa, và như vậy họ được dành chỗ ưu tiên trong lãnh vực tế tự.

Sang đến Tân ước, Phúc âm đã trưng bày nhiều mẫu gương của các phụ nữ rất gần gũi với Chúa Giêsu, khác với vị trí của họ trong các hội đường Do thái. Nhiều phụ nữ đã đi theo Chúa Giêsu ngay từ buổi đầu sứ vụ (Lc 8,1-3) và họ đi theo Người cho đến cùng, trên núi Golgota và đến lúc an táng (Mt 27,55). Đối lại, Chúa Giêsu đã trân trọng nữ giới, không có dấu chỉ nào cho thấy một sự kỳ thị đối với họ. Người đã sẵn sàng đối thoại với họ về những chân lý cao siêu, như trường hợp phụ nữ Samaria (Ga 4,27).

Thái độ của thánh Phaolô hơi khó hiểu. Một đàng, ông đã tranh đấu để bài trừ tục cắt bì (dành riêng cho nam giới). Tất cả mọi người nam nữ đều thuộc về Dân Thiên Chúa nhờ bí tích rửa tội (chứ không do phép cắt bì như trong Cựu ước). Bí tích rửa tội xóa bỏ hết mọi thứ đố kị do chủng tộc và phái tính (xc Gl 3,28).

Mặt khác, trong các lá thư, đôi khi thánh Phaolô lại dựa vào những đoạn sách Sáng thế để nói đến việc người nữ (vợ) phải tùng phục người nam (chồng). Phải chăng đây là ý kiến của ông, hay chỉ phản ánh tục lệ đương thời? Câu trả lời không đơn giản, bởi vì nhiều đoạn văn có thể giải thích theo chiều hướng bình đẳng hoặc theo chiều hướng tùng phục. Thí dụ như trong thư thứ nhất gửi Côrintô, chương 11, câu 3: “Tôi muốn anh em biết rằng đầu của người nam là Đức Kitô, đầu của người nữ là người nam, và đầu của Đức Kitô là Thiên Chúa”; và thánh tông đồ viết tiếp ở câu 7 như thế này: “người nam là hình ảnh và vinh quang của Thiên Chúa, còn người nữ là vinh quang của người nam; không phải người nam tự người nữ mà có, nhưng người nữ tự người nam, cũng chẳng phải người nam được dựng nên vì người nữ, nhưng người nữ vì người nam”. Đoạn văn này bàn về trang phục của phụ nữ, cách riêng khi tham dự các buổi hội họp. Theo tục lệ thời đó, các ông để đầu trần, còn các bà thì trùm khăn. Có vài bà muốn thay đổi tục lệ, gây ngứa mắt cho nhiều người. Vì thế mà thánh Phaolô can thiệp. Tuy nhiên, chuyện các bà đội khăn hay không là tuỳ thuộc vào văn hóa địa phương chứ không phải do luật Chúa truyền. Thánh Phaolô muốn duy trì tục lệ, và đưa ra những lý lẽ thuyết phục vừa trích dẫn, theo đó các bà phải đội khăn như là biểu tượng của sự suy phục. Tuy nhiên cách đó mấy dòng, ở các câu 11-12, tác giả lại viết: “Trong Chúa, không nam thì chẳng có nữ, mà không có nữ thì cũng chẳng có nam. Thật thế, như người nữ tự người nam mà có, thì người nam cũng bởi người nữ mà sinh ra, và mọi sự đều tự Thiên Chúa mà có”. Nói khác đi, trong mối tương quan nam nữ, tiêu chuẩn cuối cùng để quy chiếu không phải là các bà cũng chẳng phải các ông, nhưng là chính Thiên Chúa. Chính Đức Kitô cũng suy phục Thiên Chúa. Một cách tương tự như vậy, trong thư gửi Êphêsô chương 5, câu 22, ông viết: “người làm vợ hãy tùng phục chồng như tùng phục Chúa, và chồng là Đầu của vợ cũng như Đức Kitô là Đầu của Hội thánh... và như Hội thánh tùng phục Đức Kitô thế nào, thì vợ cũng phải phục tùng chồng trong mọi sự như vậy”; nhưng trước đó ở câu 21, chúng ta đọc thấy rằng: “vì lòng kính sợ Đức Kitô, anh em hãy tùng phục lẫn nhau”; như vậy sự tùng phục mang tính cách hỗ tương, chứ không phải một chiều. Kế đó, thánh Phaolô so sánh mối tương quan vợ chồng với tương quan giữa Hội thánh và Đức Kitô. Lối so sánh này mang theo những lợi hại của nó. Chắc chắn là Hội thánh không thể nào đòi hỏi bình đẳng với Đức Kitô được, và vì thế xem ra các bà vợ cũng bị thiệt thòi bởi vì không được đối xử ngang hàng với chồng: đây là một điều bất lợi cho các bà! Tuy nhiên, để bù lại, sự so sánh này có lợi cho các bà, ở chỗ Đức Kitô đã yêu thương Hội thánh, đã hiến mình vì Hội thánh, đã nuôi nấng và chăm sóc Hội thánh; các ông chồng cũng được yêu cầu hãy cư xử như vậy đối với vợ của mình.

Dù sao, điều đáng lưu ý là thánh Phaolô không chỉ giới hạn vai trò phụ nữ trong công cuộc tề gia nội trợ. Trên thực tế, chúng ta biết rằng trong các thư của thánh Phaolô, các phụ nữ cũng nhận được ơn ngôn sứ (1 Cr 11,5) và họ được nhìn nhận quyền được thực hành ân huệ này, nhằm xây dựng cộng đoàn (1 Cr 14, 26. 31). Sách Tông đồ công vụ nhiều lần nhắc đến tên của bà Prisca, một cộng sự viên của thánh tông đồ tại Côrintô, Êphêsô, Rôma (18,2.18-19.26). Tên bà cũng xuất hiện nhiều lần trong các thư của thánh Phaolô (Rm 16,3; 1Cr 16,19; 2 Tm 4,19). Ngoài ra, ở cuối thư gửi các tín hữu Rôma (chương 16, từ câu 1 đến câu 16), thánh Phaolô giới thiệu nhiều phụ nữ cộng sự với mình (như là chị Phêbê) hoặc là gửi lời chào thăm các phụ nữ nổi tiếng ở cộng đoàn Rôma (như là chị Maria -câu 6-, chị Giunia - câu 7-; các chị Triphêna, Perxiđê, câu 8).

Trong lịch sử, Giáo hội đã chịu ảnh hưởng của nhiều nền văn hóa “trọng nam khinh nữ”. Văn hóa này chịu ảnh hưởng khung cảnh kinh tế xã hội của một thời đại nào đó. Thực vậy, trước đây sự phân chia công tác khá rõ rệt: các bà lo việc nhà, còn các ông đi làm việc bên ngoài. Tự nó sự phân chia công tác không bao hàm một sự kỳ thị: tuy các bà không giữ quyền bính trong xã hội (như vậy là thua các ông), nhưng ở trong gia đình thì các bà là “nội tướng”. Sự lép vế của các bà có lẽ bắt nguồn từ sự lệ thuộc kinh tế: công việc nội trợ không làm ra tiền; đang khi các ông đi làm thì mang tiền về. Tiền và quyền thường đi đôi với nhau. Dĩ nhiên, chúng ta đang nói đến các xã hội theo chế độ phụ hệ, chứ trong xã hội mẫu hệ thì tình hình ngược lại91. Dù sao, lịch sử Kitô giáo chịu ảnh hưởng của chế độ phụ hệ, chứ không biết đến chế độ mẫu hệ.

Trong quá khứ, người ta biện minh cho ưu thế của nam giới dựa trên sức lực thân thể và sức mạnh tâm lý, hoặc vai trò chủ động trong việc sinh sản. Về phía thần học, đôi khi người ta cho rằng nguyên cớ của sự bất bình đẳng là tội lỗi. Các phong trào tranh đấu cho nữ quyền đã chứng minh rằng những lý do ấy không đứng vững. Một cách cụ thể hơn, tại nhiều xã hội tiên tiến, nữ giới cũng đảm nhận các chức vụ như nam giới; như vậy khi gặp môi trường thuận tiện để phát huy tiềm năng thì nữ giới không thua gì nam giới.

B. Bình đẳng và khác biệt
Mặt khác, sự bình đẳng giữa hai phái không có nghĩa là xóa bỏ sự khác biệt phái tính. Những khoa y học và tâm lý học cho biết rằng sự khác biệt giữa nam nữ không chỉ giới hạn vào bộ phận sinh dục hoăc các chức năng sinh sản, nhưng phái tính chi phối toàn thể cơ cấu của con người: từ nhiễm sắc thể (nam là XY và nữ là XX), hình dong thân thể, cấu trúc nội tiết (hormon) cho đến các đường hướng suy tư hành động. Người ta thường vạch ra vài nét so sánh như sau:

- Về cảm giác và tri giác. Nữ giới diễn tả qua những nét tế nhị duyên dáng. Nam giới biểu lộ qua việc suy tầm và quyết đoán.

- Về cảm xúc. Nữ giới dễ thay đổi tính khí, đôi khi do ảnh hưởng của chu kỳ, và dễ bộc lộ cảm xúc (dễ khóc và dễ cười). Nam giới gắng làm chủ cảm xúc.

- Về nghị lực. Nơi nữ giới, nó lan tỏa khắp thân thể, hoạt động chậm rãi, và bền bỉ. Nơi nam giới, nghị lực dồn vào vài cơ quan và được huy động nhanh chóng.

- Về nhận thức trí tuệ. Nữ giới nổi về trực giác và suy luận bằng con tim, chú ý đến chi tiết. Nam giới thuyết phục bằng lý luận rành mạch

- Về tình cảm. Nữ giới chú ý sự tinh tế, dịu dàng, vẻ đẹp. Nam giới hướng tới sáng kiến, các phương tiện hữu hiệu.

- Về nhân sinh quan. Nữ giới trọng tình nghĩa, chung thuỷ, bảo vệ sự sống. Nam giới nhằm tới việc đạt được mục tiêu sản xuất.

- Về tôn giáo. Nữ giới bị thu hút bởi tình cảm và sự huyền nhiệm; thiên về chiêm niệm. Nam giới muốn nắm bắt cái cốt lõi của tôn giáo, và diễn đạt cảm nghiệm tôn giáo ra hoạt động.

Dĩ nhiên đó là những nhận xét chung, chứ không đồng nhất cho hết mọi người, và chịu ảnh hưởng không ít bởi văn hoá giáo dục92.

C. Khác biệt và hợp tác

Sự khác biệt giới tính có ý nghĩa gì không? Tại sao có nam giới và nữ giới, chứ không thuần nam hay thuần nữ?

Vào thời cận đại, những câu hỏi này được nêu lên từ hai phong trào:

1/ Phong trào “nữ quyền” đấu tranh cho sự bình quyền giữa nam và nữ. Các học giả không nhất trí trong việc đặt khởi điểm cho phong trào nữ quyền93. Hiện nay nhiều quốc gia dành ngày 8 tháng 3 làm ngày Phụ nữ, mặc dù nguồn gốc của ngày này vẫn còn tranh cãi: kỷ niệm ngày 8/3/1857 khi các nữ công nhân ngành dệt tại Nữu ước đình công và bị đàn áp? Ngày 8/3/1917, cuộc nổi dậy ôn hòa của các nữ công nhân ở Petrograd (bên Nga)? Ngày 8/3/1848, khi các phụ nữ thành phố Nữu ước xuống đường để đòi quyền chính trị? Dù sao, việc tranh đấu cho sự bình quyền khởi đầu từ quyền bầu cử (được nhìn nhận năm 1906 tại Phần lan, năm 1909 bên Na uy, 1915 bên Đan-mạch và Islanda, 1917 bên Liên xô, 1918 Anh, 1919 các nước Ao, Đức, Ba-lan, Luxembourg, 1920 Hoa-kỳ; mãi đến năm 1946 quyền này mới được nhìn nhận bên Pháp), rồi mở rộng đến các quyền lợi chính trị, kinh tế (quyền sở hữu tài sản).

2/ Phong trào đồng tính luyến ái tranh đấu xóa bỏ sự khác biệt giới tính. Theo họ, chính vì sự quan niệm khác biệt phái tính mà nữ giới bị kỳ thị. Vì thế nếu muốn cho nữ giới được hoàn toàn bình quyền với nam giới, thì phải xoá bỏ sự khác biệt giữa hai phái, bởi vì sự khác biệt dựa theo sinh lý chỉ là do ảnh hưởng của văn hoá chứ không đúng với thực tại. Chủ trương này mang tên là gender neutral, bắt nguồn vào khoảng năm 1970 bên Hoa kỳ. Một hậu quả trực tiếp của sự xoá bỏ phái tính là thừa nhận hôn nhân đồng tính và sửa đổi quan niệm về gia đình (tương quan vợ chồng cũng như tương quan cha mẹ). Về lâu về dài, người ta hy vọng có thể bào chế thân thể không phái tính (Tuyên ngôn của Donna Haraway, năm 1993)94.

Trong bối cảnh này, Toà thánh đã lên tiếng trình bày quan điểm về sự khác biệt và hợp tác giữa hai phái, tóm lại qua văn kiện của Bộ Giáo lý đức tin mang tựa đề “Về sự hợp tác giữa người nam và người nữ trong Giáo hội và trong thế giới” (31/5/2004)95.

1/ Ý nghĩa sự phân biệt phái tính nam nữ
Kinh thánh đã khẳng định rằng Thiên Chúa đã dựng nên con người với hai phái nam nữ. Cả hai phái đều là hình ảnh Thiên Chúa.

Phái tính là một yếu tố cơ bản làm nên căn cước của con người. Phái tính không chỉ liên hệ đến hình thù của thân thể, nhưng ảnh hưởng đến lãnh vực tâm lý và tinh thần nữa. Cách riêng thân thể diễn tả đặc tính phu thê (làm vợ làm chồng) giữa hai phái.

Kinh thánh cũng cho biết rằng mối tương quan nam nữ đã bị tổn thương vì tội lỗi. Một trong những vết thương là việc đối xử bất bình đẳng giữa nam nữ. Người nữ không còn được coi như một “cộng sự” của người nam. Sự tôn trọng đã nhường chỗ cho khống chế, chiếm đoạt, kỳ thị (xc. St 3,16).

Vào thời nay, sự tranh đấu cho nữ giới được bình quyền với nam giới đôi khi đưa đến những quan điểm ngược lại: nam nữ coi nhau như những đối thủ cạnh tranh. Một quan điểm khác đòi xóa bỏ sự khác biệt phái tính.

Những trang đầu tiên của Sách Thánh phần nào đã cảnh giác chúng ta về nguồn gốc của tình trạng lệch lạc xảy ra trong lịch sử. Vào lúc đầu, cả nam lẫn nữ đều được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa, và họ sống trong tình hiệp thông. Đến lúc họ toa rập với nhau muốn “trở nên ngang hàng với Thiên Chúa”, gạt bỏ Thiên Chúa ra ngoài, thì cũng chính là lúc họ quay ra nghi ngờ mất tin tưởng lẫn nhau. Tuy nhiên, chúng ta cũng xác tín rằng những vết thương của tội lỗi đã được Chúa Kitô chữa lành do ơn cứu rỗi mà Người đã mang lại. Nhờ ân sủng, chúng ta hy vọng có khả năng duy trì mối tương quan của tình yêu lành mạnh theo ý Đấng Tạo Thành, tình yêu trao hiến và chung thuỷ.

2/ Vai trò của phụ nữ

Tuy rằng tựa đề của văn kiện muốn đề cập đến sự hợp tác hỗ tương giữa hai phái, nhưng hai chương cuối chú ý cách riêng đến phái nữ, xét vì cần trả lời cho những thách đố do phong trào nữ quyền đặt ra.

Vai trò của phụ nữ không chỉ giới hạn vào việc sinh con đẻ cái mà thiên nhiên đã xếp đặt nơi thân thể của họ. Đàng sau công tác này, cần khám phá một thiên chức của nữ giới là trao ban sự sống: người phụ nữ có khả năng gợi lên một sự sống mới, che chở sự sống khi còn non nớt, giúp cho nó tăng trưởng, kiên trì bảo vệ nó trước những nghịch cảnh, nhẫn nại duy trì sự sống hướng đến tương lai. Những đức tính này tạo cho người phụ nữ một thứ trực giác để nắm bắt những nhu cầu của tha nhân, và tìm ra những giải pháp cụ thể để đáp ứng (thay vì những lý luận xa vời). Nữ tính và mẫu tính gắn liền với nhau, tuy rằng chức vụ làm mẹ không chỉ giới hạn trong lãnh vực của gia đình, nhưng còn mở rộng đến nhiều nhãn giới khác, tạm gọi là ơn gọi làm “mẹ tinh thần”, bao gồm cả những phụ nữ dâng hiến đời mình cho Thiên Chúa96. Lịch sử cho thấy sự đóng góp của phụ nữ vào đời sống của xã hội nhân loại và Kitô giáo. Dù nào, sự đóng góp cao quý nhất của phụ nữ cho xã hội là đào tạo những phần tử xã hội: con người học biết cách yêu thương, phục vụ, tôn trọng tha nhân nhờ kinh nghiệm được đón nhận, yêu thương mà mình cảm nhận từ gia đình, đặc biệt từ người mẹ của mình. Vì thế, các nền pháp lý cần tìm cách để giúp cho các phụ nữ làm việc ngoài xã hội có những điều kiện để dung hoà với công tác trong gia đình là tế bào của xã hội.

II. Tính dục

Vấn đề tính dục có thể được bàn dưới nhiều khía cạnh: tâm lý, sinh học, luân lý, xã hội. Chúng tôi chỉ giới hạn vào hai vấn đề: 1/ quan hệ nam nữ; 2/ đồng tính luyến ái.

A. Quan hệ nam nữ

Khoa nhân học (dân tộc học, văn hóa đối chiếu) đã cho thấy rằng từ thuở xa xưa, các dân tộc đã ý thức sự khác biệt về bản năng truyền sinh giữa con người và thú vật. Nhiều phong tục, nghi lễ được đặt ra chung quanh việc giao hợp và sinh sản: từ những định chế về hôn nhân gia đình (luật lệ và cấm kỵ liên quan đến việc vợ chồng, sinh đẻ), cho đến những tập tục gây tác dụng trên cơ quan sinh dục (cắt bì, thiến hoạn). Không dễ gì tìm hiểu ý nghĩa và mục tiêu của những định chế và tục lệ ấy, với nguồn gốc từ lâu đời. Có lẽ người ta thấy rằng việc kết hợp nam nữ ảnh hưởng đến sự bền vững của cộng đoàn (dù là bộ tộc hay dân tộc), và việc không tôn trọng các định chế sẽ dẫn tới sự tan rã của cộng đoàn.

Một điều đáng ghi nhận là tại các xã hội cổ truyền, xem ra sự phối hợp nam nữ nhằm đến sự sinh sản hầu tăng gia những thành phần hoạt động của cộng đoàn (xã hội cần nhiều nông dân để canh tác hoặc nhiều lính tráng để chiến đấu). Theo dòng thời gian, thêm vào ý định ra như thuộc bản năng ấy, văn chương các dân tộc còn ca ngợi tình yêu nam nữ: có yêu nhau thì mới lấy nhau làm vợ chồng. Bước sang thời cận đại, tình yêu hầu như chiếm vai trò chủ yếu trong tương quan nam nữ, còn chuyện sinh sản coi như phụ thuộc.

Luân lý Kitô giáo chấp nhận những giá trị của các xã hội cổ truyền: gia đình là một định chế cơ bản của xã hội, vì thế cần bảo đảm tính cách vững bền của hôn nhân. Sự chung thủy vợ chồng lại còn cần thiết cho việc giáo dục con cái nữa. Những yêu sách cơ bản này được diễn tả qua các định chế biến đổi tùy theo thời gian và không gian. Nguyên tắc “một vợ một chồng” được Phúc âm đề ra như là ý định của Đấng Tạo Hóa ngay từ hồi tạo dựng (Mc 10, 5-9). Nhưng khó khẳng định rằng đây là một lý tưởng hoặc là một định chế bất biến! Trong Cựu ước, các tổ phụ theo chế độ đa thê, cũng như tục lệ tại nhiều dân tộc (kể cả tại Việt Nam cách đây không lâu lắm). Ngay cả trong các xã hội Kitô giáo, luật nhất phu nhất phụ thường bị vi phạm không nguyên vì tội ngoại tình, nhưng thậm chí bởi nhiều tục lệ tư tình (concubinage: vợ lẽ, nàng hầu), cách riêng nơi giai cấp quý tộc phú hào. Dù sao, người ta nhận thấy rằng pháp luật của các nước tiên tiến đều chấp nhận chế độ nhất phu nhất phụ, được biện minh không vì lý do tôn giáo nhưng vì lý do nhân học. Chế độ nhất phu nhất phụ là một yêu sách của sự tôn trọng nhân phẩm của đôi bên: người phụ nữ cần được đối xử như một nhân vị, chứ không phải như một món đồ tài sản (ở nhiều xã hội cổ truyền, sự giàu sang được biểu lộ qua việc sở hữu nhiều vợ, đầy tớ, nô lệ, trâu bò, đất đai).

Việc thẩm định giá trị của tình yêu thì phức tạp hơn. Không phải là các xã hội cổ truyền không biết đến tình yêu trong gia đình; văn chương bình dân đã ca ngợi tình yêu vợ chồng, và đặc biệt tình yêu hy sinh của người mẹ hay người cha đối với con cái. Tuy nhiên, nhiều thi sĩ cổ điển và nhất là tư tưởng cận đại đề cao tình yêu nam nữ ra như đến mức tuyệt đối, với hậu quả là mối dây liên kết gia đình trở thành lỏng lẻo: bao lâu còn yêu thì còn ở với nhau, khi hết yêu thì chia tay. Trong bối cảnh này, ta dễ hiểu vì sao các nhà luân lý dè dặt khi nói đến tình yêu: cần hiểu “yêu” như thế nào? Yêu là hưởng lạc trong chốc lát, hay yêu là trao ban chính mình và đón nhận người khác cách vô điều kiện? Không ai chối được sức mạnh của tình yêu, nhưng tình yêu có thể mang lại nghị lực để xây dựng cuộc đời hoặc có thể mang lại sự tàn phá (tình yêu cuồng loạn)97. Làm thế nào kiểm soát tình yêu để nó không gây ra hậu quả hủy hoại?

Mặt khác, tâm lý chiều sâu cho thấy rằng mối quan hệ nam nữ không chỉ liên quan đến hôn nhân và sinh sản. Sự liên hệ với người khác giới giúp cho bản thân khám phá ra giới tính của mình: một đàng, giới tính của mình khác với giới tính của người kia, nhưng đàng khác, mình cần mở rộng đến giới bên kia. Sự liên hệ này đã chớm nở ngay từ thiếu thời, giữa con trai với mẹ, và con gái với cha: những gì lệch lạc trong mối tương quan này sẽ có ảnh hưởng lâu dài trên sự tăng trưởng tâm lý sau này.

Đây là vấn đề được đặt ra cho việc “giáo dục giới tính”. Giáo dục giới tính không chỉ giới hạn vào việc cung cấp sự hiểu biết các bộ phận giới tính và quan hệ nam nữ, nhưng còn bao hàm việc huấn luyện tình yêu chân chính, bởi vì giới tính chỉ là phương tiện để đạt đến tình yêu. Nói cách khác, giáo dục giới tính cần được đi kèm với việc điều khiển các bản năng bằng nhân đức khiết tịnh (xc Sách GLCG số 2331-2347). Ngoài ra, Tân ước còn mở ra viễn tượng mới: giới tính nhắm đến tình yêu, nhưng tình yêu vượt lên trên giới tính. Có thể nói đến một tình yêu trưởng thành vượt trên tương quan hôn nhân. Đây là ý nghĩa của sự “độc thân vì Nước Trời”, nhờ tác động của ân sủng, dành tình yêu cho Thiên Chúa “với con tim không chia sẻ” (xc. sách GLCG số 2349).

Chúng ta sẽ trở lại những đề tài “tình yêu - hôn nhân - gia đình” trong chương tới khi bàn đến những cấp độ xã hội.

B. Đồng tính luyến ái

Chúng ta đã nói đến sự khác biệt giữa hai phái nam nữ cũng như mối quan hệ giữa hai phái. Vào thời nay, một vấn đề sôi bỏng được đặt lên, đó là đồng tính luyến ái. Nhiều cuộc tranh cãi đã xảy ra, do nhiều động lực luân lý, chính trị, xã hội phức tạp. Mặt khác, đôi khi từ ngữ hàm hồ lại càng làm cho cuộc thảo luận trở thành rắc rối. Chúng ta hãy bắt đầu với đầu đề: “đồng tính luyến ái”. Tự nó, đầu đề muốn nói lên sự hấp dẫn về tính dục đối với người cùng phái tính (homos gốc tiếng Hy lạp có nghĩa là: một, chung, cũng giống như), đối lại với “dị tính luyến ái” (heterosexuality, hấp dẫn với người khác phái tính). Khoa học muốn tìm hiểu nguyên nhân của khuynh hướng đồng tính luyến ái: do căn nguyên tâm lý, hay sinh lý (bẩm sinh, di truyền), hay thói xấu? Không nên lẫn lộn vấn đề “đồng tính luyến ái” (homosexuality) với vấn đề “lưỡng tính” (hermaphrodism, nghĩa là người ái nam ái nữ), bởi vì xét về cơ thể người đồng tính luyến ái có đủ các bộ phận của người nam hoặc người nữ. Ngoài ra, dưới khía cạnh luân lý, cần phân biệt giữa “khuynh hướng” đồng tính luyến ái và “hành vi” giao hợp giữa hai người đồng tính. Người mang khuynh hướng đồng tính luyến ái không phải là một người tội lỗi; tính cách luân lý được đặt ra đối với hành vi giao hợp giữa những người đồng giới tính. Chúng tôi cố gắng phân tích những góc cạnh của vấn đề: những lý thuyết giải thích nguyên nhân của khuynh hướng đồng tính, tính cách luân lý của hành vi đồng tính; căn cước giới tính. Để lối hành văn được gọn gàng, chúng tôi xin gọi tắt là “đồng tính” (thay vì “đồng tính luyến ái”).

1/ Nguyên nhân của khuynh hướng đồng tính

Việc người nam hướng đến người nữ xem ra là chuyện thường tình, nằm trong bản năng bảo tồn chủng loại, tuy rằng nơi con người nó mang sắc thái của tình yêu, như vừa trình bày trên đây. Làm sao giải thích khuynh hướng của những người cảm thấy lôi cuốn đến người đồng giới hơn là người khác giới? Ít là đã có ba trào lưu giải thích: bẩm sinh, tâm lý, thủ đắc.

a) Nguyên nhân bẩm sinh
Xét về lịch sử, thì trào lưu này xuất hiện muộn nhất, vào hậu bán thế kỷ XX. Có thể coi khởi điểm của nó là phúc trình của ông Alfred C. Kinsey được phát hành năm 1948, theo đó số người đồng tính luyến ái lên đến 10 phần trăm dân số nam giới. Tài liệu này đã bị các nhà khoa học phê bình gay gắt, bởi vì các thống kê dựa trên một cuộc điều tra thực hiện nơi những người phạm nhân và tại một trường trung học, và vì thế thiếu tính khách quan. Từ đó, một câu hỏi được đặt lên: phải chăng đã có một động lực nào đàng sau việc lèo lái các dữ kiện như vậy? Dù sao, thì các phong trào bảo vệ sự hợp thức hoá sự đồng tính luyến ái đã dựa trên phúc trình của Kinsey để bênh vực cho một tỉ lệ đáng kể của dân số.

Trước đó vào năm 1897, ông Magnus Hirschfeld (1868-1935) đã đưa ra giả thuyết về sự đồng tính do bẩm sinh. Gần một thế kỷ sau, giả thuyết này được hâm lại do ông Simon Le Vay, một nhà sinh vật học Hoa Kỳ, trong tác phẩm The Sexual Brain (1991). Khi khảo sát bộ não của 41 tử thi (7 phụ nữ, 19 người nam đồng tính, 16 người nam xem ra dị tính), đặc biệt là ở một tế bào kẽ của vùng dưới đồi (hypothalamus) được đặt tên là INAH-3 (Interstitial Nucleus of the Anterior Hypothalamus), ông nhận thấy rằng chiều kích của nó ở nơi những người nam dị tính thì lớn hơn là ở nơi những người nữ và những người đồng tính. Vì thế có thể đoán rằng chính cái tế bào đó là nguồn gốc của khuynh hướng đồng tính.

Tuy nhiên, giả thuyết của ông LeVay không được các nhà khoa học chấp nhận, bởi vì không có mối liên hệ chặt chẽ giữa dung lượng của INAH-3 (có thể tăng giảm) với khuynh hướng giới tính. Năm 1994, bác sĩ William Byne cho thấy rằng bộ não của những người nam đồng tính mà ông LeVay khảo cứu là những người chết vì bệnh SIDA, và vì thế số lượng kích thích tố (testosteron) giảm sút, gây ra sự biến đổi dung lượng của vài hạnh nhân của vùng dưới đồi. Dù sao, giả thuyết của ông không thể giải thích hiện tượng đồng tính nơi phụ nữ.

Thuyết về nguyên nhân sinh lý của khuynh hướng đồng tính đã bị công trình của hai ông Michael Bailey và Richard Paillard đánh đổ qua cuộc nghiên cứu trên những đôi song sinh đồng hợp tử98. Những đôi này cũng mang gen như nhau, cùng hấp thụ một nền giáo dục gia đình như nhau, nhưng 48% lại có khuynh hướng phái tính khác nhau. Dù sao, nếu một người có khuynh hướng đồng tính thì người anh em sinh đôi không nhất thiết cũng mang khuynh hướng tương tự. Như vậy, khuynh hướng đồng tính hay dị tính không bị ảnh hưởng bởi gen, nhưng là do yếu tố khác: hoặc do sự tự ý chọn lựa, hoặc do cách cảm nhận tình cảm về phía cha mẹ, hoặc do những tập quán đưa đến hành động giới tính cụ thể.

b) Nguyên nhân tâm lý

Từ năm 1917, ông Alfred Adler, một nhà phân tâm người Áo (1870-1937), đã móc nối sự đồng tính với mặc cảm tự ti đối với giới tính của mình. Năm 1962, những cuộc nghiên cứu của Irving Bieber và Toby B. Bieber cho thấy rằng để cho một người đánh giá đúng mức phái tính của mình thì đương sự cần phải trân trọng người cha (hay mẹ) cùng giới với mình (con trai đối với cha, con gái đối với mẹ), và cần phải cảm nhận tình thương của thân sinh đồng giới99.

Ngoài ra, người đồng tính vào tuổi trưởng thành thường là người trước đây khi còn thiếu thời đã không được hoà nhập với nhóm người cùng phái. Kinh nghiệm thời thơ ấu dẫn đương sự đến chỗ bi đát hoá tình trạng của mình, và thèm muốn tình cảm của những người đồng phái mà trước đây mình cảm thấy bị hất hủi hoặc gạt bỏ.

Ông Gerard J.M. van den Aarweg, một chuyên gia về tâm thần người Hà lan, cho rằng chứng đồng tính có thể chữa được, nhưng nhất là nó có thể và cần được phòng ngừa khi còn thơ ấu bằng một nền giáo dục đứng đắn. Theo ông, một nền giáo dục muốn xoá bỏ sự khác biệt phái tính nam nữ hoặc thiếu sót về tình thương của người cha và người mẹ thì sẽ gây ra những mặc cảm dẫn đến chứng đồng tính.

Tuy có nhiều lối giải thích về nguồn gốc tâm lý của chứng đồng tính, nhưng nói chung người ta đặt tên cho một mẫu số chung là “sự khủng hoảng về căn cước phái tính”. Dưới khía cạnh này, tâm lý học phân biệt nhiều cấp độ: có thứ khuynh hướng xảy ra vào lứa tuổi trưởng thành (và rồi sẽ biến đi)100, có thứ khuynh hướng xảy ra vào lứa tuổi ba mươi và dai dẳng hơn.

c) Nguyên nhân thủ đắc

Có thể nói được rằng đây là chủ trương lâu đời nhất, theo đó sự đồng tính luyến ái là một tật xấu do thủ đắc. Đối lại với trào lưu thứ nhất bênh vực nguồn gốc bẩm sinh, trào lưu thứ ba quy gán căn nguyên cho một sự lệch lạc luân lý nào đó (nghĩa là tật xấu, tội lỗi).

Trước đây, nhiều sách luân lý liệt kê chứng đồng tính vào hạng những tội trái ngược với tự nhiên (cũng như chứng thú dâm, loạn dâm), và đặt tên là tội “Sodoma”, móc nối với đoạn văn sách Sáng thế chương 19 giải thích lý do của sự tàn phá thành Sodoma như một hình phạt của Thiên Chúa (St 19,5). Ngày nay, nhờ những đóng góp của khoa học nhân văn hiện đại, người ta đã phân biệt nhiều cấp độ khác nhau.

- Khuynh hướng thiên về người đồng phái không nhất thiết bắt nguồn từ một tật xấu, và vì thế không nhất thiết là một tội lỗi. Tuy nhiên, dưới khía cạnh khách thể, xu hướng này không phải là điều thường tình, và không có lý do gì để khuyến khích sự phổ biến công khai.

- Một hành vi mang tính cách luân lý khi nó được chọn lựa quyết định tự do. Sự giảm thiểu tự do cũng giảm thiểu trách nhiệm của hành vi.

2/ Tính cách luân lý

Cuộc tranh luận về nguồn gốc của chứng đồng tính đã đưa đến nhiều sự phân biệt quan trọng khi tìm hiểu vấn đề:

a) Khuynh hướng đồng tính thì khác với hành vi đồng tính.

- Khuynh hướng được hiểu như là một sự hấp dẫn đặc biệt (tựa như người có khuynh hướng về thể thao, âm nhạc, ăn nhậu). Không thể khẳng định rằng tất cả mọi khuynh hướng đều bẩm sinh. Có thể khi còn nằm trong nôi, chúng ta đã được nghe tiếng hát mẹ ru, từ đó nảy ra năng khiếu âm nhạc; nhưng không phải hết mọi người đều có thiên tài nhạc sĩ. Khuynh hướng ăn nhậu xem ra có tính cách bẩm sinh nếu hiểu rằng nó nằm trong bản năng sinh tồn; tuy nhiên điều này không cho phép ăn uống vô điều độ, nếu ta không muốn sớm đi xuống mồ. Riêng về khuynh hướng đồng tính, đã có những giả thuyết cho rằng bẩm sinh, nhưng không được chứng minh theo khoa học. Đối lại, khuynh hướng dị tính (hướng đến người khác phái) dựa trên cơ sở khách quan của cơ thể.

- Khi nói rằng khuynh hướng đồng tính không do bẩm sinh, thì không có nghĩa là những ai mang khuynh hướng này đều là người xấu xa tội lỗi! Vấn đề tội lỗi tuỳ thuộc vào nhiều yếu tố khác, xét về nguyên nhân và thực hành. Chúng ta mang trong người nhiều xu hướng, có điều hợp với lý trí có điều không hợp với lý trí; chúng ta cần dùng ý chí để điều khiển các xu hướng đó. Xu hướng ăn nhậu hoặc xu hướng yêu đương người khác phái nằm trong bản năng của con người, nhưng nói thế không có nghĩa là ta cứ cho chúng mặc quyền thao túng. Xu hướng muốn thủ tiêu người địch thù là điều không hợp với lý trí, và ta không được phép chiều theo nó.

- Đó là lý do mà ta nên phân biệt giữa “khuynh hướng” và “hành vi” đồng tính luyến ái. Khuynh hướng đồng tính không phù hợp với bản tính tự nhiên của phái tính. Tuy nhiên người có khuynh hướng này không phải là người xấu xa, bởi vì nhiều lần khuynh hướng này bắt nguồn từ một nguyên nhân ngoài ý muốn của đương sự. Tuy vậy, khi đương sự thực hiện hành vi đồng tính thì lại là chuyện khác.

b) Hành vi đồng tính thì khác với khuynh hướng đồng tính

Hành vi đồng tính có thể thực hiện bởi những người đồng tính hay bởi những người dị tính: nó là một hành vi xấu101, tuy rằng mức độ trách nhiệm có thể tăng hay giảm tuỳ theo điều kiện của chủ thể. Đây là một quy tắc chung cho việc thẩm định luân lý của một hành vi. Giết người là một điều xấu; nhưng một người phạm tội giết người do đam mê thúc đẩy (chẳng hạn vì thấy người bạn của mình phạm tội ngoại tình) thì trách nhiệm luân lý nhẹ hơn là một người lạnh lùng giết một người giữ két tiền để ăn cướp.

- Khi việc thực hiện những hành vi đồng tính đã trở thành thói quen, thì không những nó thành một tật xấu, nhưng có nguy cơ sẽ lôi cuốn theo những hậu quả khác, tựa như sự tìm khoái lạc ích kỷ, tính mất khả năng kiềm chế đam mê.

3/ Căn cước giới tính

Trên đây, chúng ta đã nhận thấy rằng sự khác biệt giữa nam giới và nữ giới không chỉ giới hạn vào các bộ phận sinh dục, nhưng còn ảnh hưởng đến toàn thể tâm lý và hành vi. Cuộc tranh luận chung quanh xu hướng đồng tính đã đào sâu hơn việc tìm hiểu ý nghĩa và những đặc điểm của phái tính, qua những khám phá của các môn học nhân văn. Thực vậy, phái tính bao gồm nhiều khía cạnh, theo như y khoa và tâm lý học cho thấy.

a) Trong ngành y khoa, người ta phân biệt nhiều cấp bậc của phái tính: di truyền (genetic), tuyến sinh dục (gonadic), thân thể (somatic).

(i) xét về di truyền, phái tính được xác định vào lúc thụ thai bởi nhiễm sắc thể (chromosome). Mỗi tế bào chứa 23 cặp nhiễm sắc thể, trong đó 22 cặp mang tên là nhiễm sắc thể thường (autosome) và cặp thứ 23 là nhiễm sắc thể giới-tính (sex chromosome): XX nếu là nữ và XY nếu là nam.

(ii) sự khác biệt di truyền dẫn đến sự khác biệt về tuyến sinh dục, sự phát triển các kích thích tố (hormon) trong khoảng thời gian từ 20 cho đến 90 ngày;

(iii) sự khác biệt kích thích tố ảnh hưởng đến sự phát triển các cơ quan sinh sản, và những đặc điểm khác của mỗi phái, kể từ tuần lễ thứ tám sau khi thụ thai. Sự khác biệt giới tính này chi phối toàn thể cơ quan của cơ thể.

b) Trong ngành tâm lý, người ta lưu ý rằng nam tính hay nữ tính không chỉ giới hạn vào khía cạnh sinh lý nhưng còn chịu ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố giáo dục và văn hóa nữa. Thêm vào đó, việc “trưởng thành phái tính” là một tiến trình kéo dài lâu năm sau khi lọt lòng mẹ.

(i) Vào thời kỳ 2 và 3 tuổi, em bé cảm thấy mình là nam hoặc nữ, và muốn bắt chước thân sinh đồng phái với mình (trai bắt chước cha, gái bắt chước mẹ). Để sự đồng hóa được tốt đẹp, em bé cần phải có ấn tượng tốt (kể cả tình cảm) đối với thân sinh đồng phái.

(ii) Trong khoảng từ 3 đến 5 tuổi, sự đồng hóa với thân sinh đồng phái còn bị chi phối bởi khuynh hướng “mê” thân sinh khác giới (trai đối với mẹ, gái đối với cha). Thêm vào đó, các thiếu nhi (nam hay nữ) chấp nhận (hay khước từ) phái tính của mình tuỳ theo quy ước xã hội đối với mỗi phái.

(iii) Trong giai đoạn trưởng thành (11-16 tuổi), người trẻ nhận thấy thân thể phát triển cũng như những cảm xúc. Đây là thời kỳ khẳng định bản lĩnh: người trẻ mở rộng những tương quan với bạn bè và xã hội, với những thành công và thất bại, được đón nhận hay bị ruồng bỏ. Những yếu tố này có thể đưa đến thái độ cởi mở hay khép kín, trao ban hay nắm giữ. Những thái độ này không đồng điệu, nhưng trải qua nhiều pha biến thiên lên xuống. Những hành vi thủ dâm hay đồng tính thường là biện pháp bù đắp những thiếu sót tình cảm.

Nên biết là những thái độ và tâm tình này vẫn tiếp tục biến đổi suốt đời.

Việc hiểu biết và chấp nhận căn cước giới tính là một trong những phương pháp phòng ngừa và trị liệu cho chứng đồng tính102.

Kết luận

Trong chương này chúng ta bàn đến thân xác và giới tính. Chúng ta thấy rằng thú vật cũng có thân xác và giới tính, nhưng hai yếu tố này đã được “nhân hóa” nhờ lý trí và tự do. Thân xác trở thành trung gian để phát biểu tư tưởng và tình cảm cũng như cơ quan để tiếp xúc với tha nhân và thế giới như sẽ thấy trong những chương tới. Giới tính không chỉ nhằm duy trì sự sống còn của chủng loại nhưng còn là công cụ để phát biểu tình yêu, một tình yêu cần được huấn luyện để đi từ chỗ chiếm đoạt đến chỗ ban phát, thậm chí đến chỗ hy sinh bản thân cho người yêu.

Chú thích:
90 Trong nguyên ngữ Latinh, sexus gốc bởi secare: tách ra, phân biệt; có lẽ nói đến sự phân biệt hai phái của loài người.

91 Chế độ mẫu hệ không hoàn toàn thuộc về dĩ vãng, nhưng còn tồn tại ở vài dân tộc trên đất Việt Nam. Nên lưu ý là nếu chế độ phụ hệ cổ truyền kèm theo tục đa thê, thì chế độ mẫu hệ cũng kèm theo chế độ đa phu (tại vài bộ tộc Hymalaya, Tibet, nam Ấn độ, Sri Lanka, vv).

92 Ông Karl Jung cho thấy rằng mỗi con người chúng ta đều mang một yếu tố Nam (animus) và yếu tố Nữ (anima).

93 Vài mốc điểm: Tuyên ngôn đòi hỏi quyền lợi phụ nữ của bà Mary Wollstonecraft (Vindication of the Rights of Woman, London 1792); Hội nghị về quyền lợi nữ giới (Women Rights Convention) tại Seneca Falls, bang New York năm 1948 do sáng kiến của các bà Elisabeth Cady Stanton e Lucretia Mott. Hai thời điểm này thường được móc nối với các cuộc cách mạng 1789 và 1848 tại châu Âu.

94 Ngoài sự chấp nhận hôn nhân dị tính (cổ truyền) người ta còn tiến tới sự thừa nhận không những là hôn nhân đồng tính (homosexual) mà còn hôn nhân song tính (bisexual) nghĩa là với người đồng phái và khác phái.

95 Văn kiện mang hình thức của một lá thư gửi các giám mục. Ngoài nhập đề (số 1) và kết luận (số 17), văn kiện được chia làm ba phần: 1/ Vấn đề (số 2-4). 2/ Những dữ kiện Kinh Thánh về nhân học (số 5-12). 3/ Những giá trị của nữ tính trong đời sống xã hội (số 13-14). 4/ Những giá trị của nữ tính trong đời sống Giáo hội (số 15-16). Nên biết là văn kiện trích dẫn nhiều lần tông thư Phấm giá phụ nữ (15/8/1988) và Thư gửi các phụ nữ (29/6/1995) của đức Gioan Phaolô II.

96 Xc. Gioan Phaolô II, Tông huấn Đời sống thánh hiến, số 58-59.

97 Tâm lý học cũng như thần học luân lý đều nói đến những lệch lạc của giới tính, chẳng hạn: cuồng dâm, bạo dâm, thú dâm, v.v (xc. Sách Giáo lý Hội thánh Công giáo số 2351-2356).

98 A genetic study of male sexual orientation, Archives of General Psychiatry 48,1991

99 Nói cách khác, theo ý kiến này thì khuynh hướng đồng tính của người nam bắt nguồn từ ba nguyên nhân: a) bà mẹ quyền thế; b) người cha vắng mặt hoặc thiếu thiện cảm; c) đương sự nhút nhát, hướng nội, nhạy cảm.
100 Có thể kể thêm một nguyên nhân xã hội của sự đồng tính, đó là môi trường sinh sống, chẳng hạn như những học sinh nội trú, những người sống trong trại lính, nhà tù v.v.

101 Điều này đã được nói trong Kinh thánh Cựu ước và Tân ước (xc. St 19,1-25; Lv 18,22; 20,13; Rm 1,26-27; 1Cr 6,9-11; 1Tm 1,9-10).

102 Các văn kiện Toà Thánh liên quan đến vấn đề đồng tính luyến ái. Bộ giáo lý đức tin, Thư gửi các giám mục công giáo về việc chăm sóc mục vụ cho những người đồng tính luyến ái (1-10-1986). Sách Giáo lý Hội thánh Công giáo, số 2357-2359. Về việc thâu nhận những người có xu hướng đồng tính vào chủng viện được đề cập trong huấn thị của Bộ Giáo dục Công giáo ngày 4-11-2005.

Lm. Giuse Phan Tấn Thành, O.P. 
Thân xác và phái tính Reviewed by Admin on 3/09/2012 Rating: 5 GHXHCG - Nhờ thân xác con người tiếp xúc với tha nhân và vũ tru.. Ở đây chúng tôi muốn tiếp tục bàn về một đặc tính của thân xác đó là p...

Không có nhận xét nào: