Nguyễn Học Tập - SUY NIỆM PHÚC ÂM (IV B 44); (02.09.2012); (Mc 7, 1-8.14.15.21-23)
CHÚA NHẬT XXII PHỤNG VỤ THƯỜNG NIÊN, NĂM B.
1 - Trong đoạn Phúc Âm Chúa Nhật hôm nay, Thánh Marco thuật lại cho chúng ta một biến cố xảy ra: cuộc tranh cải giữa Chúa Giêsu và các người Do Thái về truyền thống sạch sẽ hay ô uế, nhứt là thái độ phải có khi ăn uống.
Đoạn Phúc Âm được Thánh Marco kể lại, không những chỉ để nhớ lại những gì đã xãy ra lúc Chúa Giêsu còn tại thế với các Môn Đệ, mà còn ngụ ý dùng lời giảng dạy của Chúa Giêsu để giải quyết vấn đề hiện hữu lúc đó: vấn đề chung sống với những đụng chạm về tập quán, luật lệ trong các Cộng Đồng Ki Tô Giáo tiên khởi, nơi quy tựu những tín hữu Do Thái với truyền thống của họ và nhiều tín hữu khác, đến từ các dân tộc lân cận.
CHÚA NHẬT XXII PHỤNG VỤ THƯỜNG NIÊN, NĂM B.
1 - Trong đoạn Phúc Âm Chúa Nhật hôm nay, Thánh Marco thuật lại cho chúng ta một biến cố xảy ra: cuộc tranh cải giữa Chúa Giêsu và các người Do Thái về truyền thống sạch sẽ hay ô uế, nhứt là thái độ phải có khi ăn uống.
Đoạn Phúc Âm được Thánh Marco kể lại, không những chỉ để nhớ lại những gì đã xãy ra lúc Chúa Giêsu còn tại thế với các Môn Đệ, mà còn ngụ ý dùng lời giảng dạy của Chúa Giêsu để giải quyết vấn đề hiện hữu lúc đó: vấn đề chung sống với những đụng chạm về tập quán, luật lệ trong các Cộng Đồng Ki Tô Giáo tiên khởi, nơi quy tựu những tín hữu Do Thái với truyền thống của họ và nhiều tín hữu khác, đến từ các dân tộc lân cận.
Vấn đề tranh chấp, đụng chạm giữa những truyền thống văn hoá khác nhau, giữa các Ki Tô hữu tiên khởi cũng là cơ hội để chúng ta suy nghĩ đặt câu hỏi, vẫn có ý nghĩa trong thời đại chúng ta: Căn tính đích thực của người tín hữu Chúa Ki Tô là gì ?
Một
trong những khuynh hướng vẫn thường có của một số không ít người Ki Tô hữu là
khuynh hướng xem Ki Tô Giáo lẫn lộn và đồng nhất với thực tại văn hoá và tôn
giáo theo một khuôn mẫu nào đó trong quá khứ, trong đó việc thi hành bổn phận
tôn giáo cũng như các nghi thức được xác định bằng những luật lệ và nghi thức
bên ngoài một cách chính xác, tỷ mỉ và
cứng rắn, không thể sai lỗi hay thiếu sót. Nói cách khác, không ít người có
khuynh hướng "hoàn hảo cực đoan" (integralismus).
Câu trả
lời của Chúa Giêsu cho chúng ta một cái nhìn khác: khoảng cách giữa dự tính và thực hành, nhứt là những nghi thức
hành đạo bên ngoài của con người và ý muốn của Thiên Chúa.
Điều
quan trọng là "đến với Chúa Giêsu"(Ga 6, 35), tin vào Chúa Giêsu, "ở
lại với Ta và Ta ở lại trong người ấy" (Ga 6, 56) và tìm kiếm ý
muốn của Thiên Chúa, mà chúng ta đã có dịp suy niệm ở những Chúa Nhật trước,
qua chương 6 của Phúc Âm Thánh Gioan.
Cố chấp
gắn chặt vào truyền thống,nhứt là vào những hình thức bên ngoài, nhiều lúc
khiến cho người Ki Tô hữu chỉ còn có trước mắt những thủ tục, nghi thức, luật
lệ hình thưc và quên đi nội dung quan trọng bên trong của Ki Tô Giáo: kính
yêu Thiên Chúa hết lòng và yêu thương anh em như chính mình.
Đó là
những gì Chúa Giêsu dùng lời tiên tri Isaia để khiển trách những chú trọng quá
đáng đến các hình thức thực hành tôn giáo và trống rổng bên trong, được Thánh
Marco ghi lại:
- " Dân nầy tôn kính Ta bằng môi
bằng miệng, còn lòng chúng thì xa Ta. Chúng có thờ phượng Ta cũng vô ích, vì
giáo lý chúng giảng dạy chỉ là giới luật phàm nhân" (Mc 7, 6-7).
Căn tính
của người tín hữu Chúa Ki Tô không hệ tại ở những thực thi tỷ mỉ, chính xác từng phân từng ly các thủ
tục và nghi thức bên ngoài, không hệ tại ở những phô trương, rước kiệu trọng
thể với hàng mấy ngàn người tham dự, Thánh Lễ đồng tế có hàng trăm Cha, cho
bằng
"đến với Chúa Giêsu", "ở lại với Ta và Ta ở lại trong người ấy",
và trung
thành làm theo ý muốn của Chúa Cha,
"lương thực của Thầy là thi hành ý muốn Đấng đã sai Thầy và hoàn tất
công trình của Người" (Ga 4, 34).
Đó là
chưa kể ý đồ bất chính của những ai hô hào, cổ võ, cho phép hay khuyến khích
những cuộc rước kiệu trọng thể, Thánh Lễ đồng tế rần rộ, nhà thờ sửa chữa và
xây cất lộng lẫy để che giấu những ý đồ bất chính đàng sau.
Thái độ
gian dối, lường gạt, bất chính đó đã có lần Chúa Giêsu lột mặt nạ bằng câu
tuyên bố với người thiếu phụ Samaritana:
- "Này con, hãy tin Ta: đã đến giờ các ngươi sẽ
thờ phượng Chúa Cha , không phải trên núi này hay tại Giêrusalem…Nhưng đã đến giờ, và chính lúc nầy đây,
giờ những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong Thánh Thần và
sự thật" (Ga 4, 21.23).
2 -
Nhưng điểm chính yếu bài giảng hôm nay của Chúa Giêsu đối với những người Do
Thái tranh luận với Người, được Thánh Marco viết lại ở phần cuối của đoạn Phúc
Âm:
- "Người nói: điều gì từ trong con
người phát xuất ra, điều đó mới làm cho con người ô uế. Vì từ bên trong, từ
lòng con người, phát xuất những ý định xấu: tà dâm, trộm cướp, giết người,
ngoại tình, tham lam, độc ác, xảo trá, trác táng, ganh tỵ, phỉ báng, kêu ngạo,
ngông cuồng. Tất cả những điều xấu xa đó, đều từ bên trong phát xuất ra và làm
cho con người ra ô uế" (Mc 7, 20-23).
Có lẽ mới nghe qua những câu Phúc Âm vừa kể,
chúng ta lấy làm kỳ quặt, vì chúng ta quen với quan niệm vệ sinh hiện nay của chúng ta trong vấn đề ăn uống.
Trước khi ngồi vào bàn chúng ta rửa tay, để tránh nhiểm trùng, có thể do tay
chúng ta đụng chạm vào nhiều vật, nhiều người và nhiều nơi trước khi ăn.
Người Do
Thái cũng trách các Môn Đệ Chúa Giêsu không rửa tay trước khi ăn:
- "Họ thấy vài môn đệ của Người dùng
bửa mà tay còn ô uế, nghĩa là chưa rửa. Thật vậy người Pharisêu cũng như mọi
người Do Thái đều tuân giữ truyền thống của tiền nhân: họ không ăn gì, khi chưa
rửa tay cẩn thận. Vậy người Pharisêu và kinh sư hỏi Chúa Giêsu: Sao các môn đệ
của ông không theo truyền thống của tiền nhân, cứ để tay ô uế mà dùng bửa"
(Mc 7, 2-3.5).
Nhưng
truyền thống tiền nhân của người Do Thái không dạy họ tuân giữ thủ tục để phòng
ngừa nhiểm độc hay nhiểm trùng trong khi ăn mà là rửa tay và rửa các thức ăn
trước, vì quan niệm tiền nhân cho rằng các vật từ bên ngoài là những vật ô uế
vào làm cho tinh thần con người bị ô nhiểm, nên cần phải được rửa trước.
Và chính
câu trả lời của Chúa Giêsu cũng không đề cập đến vấn đề vệ sinh khi ăn uống, mà
là sự tinh khiết hay ô nhiểm của tinh thần. Nói cách khác, làm cho con
người trong sạch hay nhơ bẫn vì tội lỗi.
Chính
trên quan điểm đó, Chúa Giêsu bác bỏ những vấn nạn của các người Pharisêu và Do Thái.
Không
phải thức ăn hay những vật thể trong
thiên nhiên ngoại tại hay ngay cả một
vài cử chỉ sơ sót hay bỏ qua đối với các nghi thức tôn giáo bên ngoài làm cho
con người trở nên ô uế, mang tội: "sao các môn đệ của ông không theo truyền
thống của tiến nhân, cứ để tay ô uế mà dùng bữa?".
Qua câu
trả lời của Chúa Giêsu, điều làm cho con người trở thành ô uế, nhơ bẩn chính là
tội lỗi, những tư tưởng bất chính được suy tư và sắp xếp của một lương tâm
không ngay thẳng, xếp đặt thành dự án, và thực hiện bằng hành động, coi giới răn Thiên Chúa
không ra gì, hướng dẫn con người nghiêng chiều về những gì bất chính đối với
Thiên Chúa và bất công đối với người thân cận mình.
- "tà dâm, trộm cướp, giết người, ngoại tình,
tham lam, độc ác, xảo trá, trác táng, ganh tỵ, phỉ báng, kiêu ngạo"
là gì nếu không phải là những suy tư bất chính
phát xuất từ lương tâm không ngay chính, những suy tư và sắp xếp được biến
thành hành động, cư xử bất công, không tôn trọng người thân cận mình và những
ai có liên hệ với mình.
Tất cả
những điều vừa kể là tội, phát xuất từ tâm hồn bất chính, được suy tư , sắp xếp
và quyết định biến thành động tác để hành xử bất công và bất kính đối với những
người thân cận, phạm giới răn của Thiên Chúa, " yêu thương anh em như
chính mình" .
Hai tội
cuối cùng được Chúa Giêsu kể ra trong những câu Phúc Âm trên là
- "kiêu ngạo và ngông cuồng".
Đối với
anh em, " kiêu ngạo" là tự tôn mình lên và miệt thị, khinh dễ
anh em, không tôn trọng anh em, đê tiện hoá anh em. Nhưng đối với
Thiên Chúa, " kiêu ngạo" là không coi Thiên Chúa ra gì, là chối bỏ
Thiên Chúa, là vô thần.
Tội cuối
cùng trong danh sách là tội "ngông cuồng". Đối với anh em,
"ngông cuồng" là hành động không suy tính, hành động theo tính
nóng nảy, thiếu hiểu biết và thiếu tình thương.
Còn đối
với Chúa, "ngông cuồng" thì sao?
Một số
nhà chú giải Thánh Kinh Ý quốc không ngần ngại đặt liên hệ giữa "ngông
cuồng" (stoltezza), "xúc phạm"(calunnia) và
"phạm thượng", plasfemia" .
Như vậy
con người "kiêu ngạo", "ngông cuồng" coi
Thiên Chúa bằng không và chối bỏ Thiên Chúa, là người vô thần.
Và từ
chỗ vô thần bước đến "xúc phạm", "phạm thượng", mắng
chửi Thiên Chúa, chỉ là một bước đường ngắn ngủi.
Và có lẽ
hai tội vừa kể trong con người, "kiêu ngạo và ngông cuồng",
hay vô thần và phạm thượng, nói lộng ngôn, chối bỏ và miệt thị Thiên
Chúa là hai căn cội tội lỗi của con người, đưa đến tất cả những lối hành xử
bất chính đối với người khác, kể cả chà đạp nhân phẩm của người khác, đê
tiện hoá người khác, làm cho cuộc sống xã hội biến thành man rợ.
Nếu họ
dám mắng chủi, phạm thượng đối với Chúa, thì con người "hình ảnh của Thiên Chúa,
giống như Thiên Chúa" (Gen 1, 26-27) là cái gì khiến cho họ
phải kính trọng ?
Đó là những gì
Thánh Phaolồ đã cảnh cáo cách đây gần 2000 năm:
- "Vì họ không thèm nhận biết Thiên Chúa, nên
Người để mặc họ theo trí óc lệch lạc mà làm những điều bất xứng, lòng họ đầy
bất chính, xấu xa, tham lam, độc ác đủ thứ, nào là ganh tỵ, giết người, cải cọ,
mưu mô, nham hiểm; nào là nói hành nói xấu, vu oan giáng hoạ. Họ thù ghét Thiên
Chúa, ngạo ngược, kiêu căng, khoác lác, giỏi làm điều ác, không vâng lời cha
mẹ, không có lương tri, không giữ lời hứa, không chút tình cảm, không xót
thương" (Rom 1, 28-31).
Con
người hay ý thức hệ như vừa kể, vô thần, coi Thiên Chúa bằng không và
lộng ngôn đối với Thiên Chúa, là những người hay ý thức hệ, qua tội lỗi
của họ, tạo ra muôn vàn bất hạnh cho
người khác, đê tiện hoá người khác, đồng bào mình cũng như người đồng loại.
Con
người hay ý thức hệ vô thần có đáng cho chúng ta tin tưởng trao vận mệnh chúng
ta và đồng bào chúng ta trong tay họ không ?
Có đáng
để cho họ lãnh đạo, cai trị đất nước chúng ta hiện tại và các thế hệ trong
tương lai hay không?
Không có nhận xét nào: