Tham dự có ông Ngô Ngọc Thu, Phó Tư lệnh, Tham mưu trưởng Cảnh sát biển; ông Hà Lê, Phó Cục trưởng Cục Kiểm ngư; ông Trần Duy Hải, Phó Chủ nhiệm UB Biên giới quốc gia; ông Nguyễn Quốc Thập, Phó Tổng giám đốc Tập đoàn dầu khí quốc gia Việt Nam.
Mở đầu cuộc họp báo, ông Lê Hải Bình thông báo những diễn biến tại thực địa cũng như những động thái ngoại giao, tuyên bố sai trái của TQ. Ông Bình cho hay họp báo nhằm cung cấp những thông tin khách quan về tình hình hiện nay.
Tiếp đó, ông Trần Duy Hải trong bài phát biểu cho hay, trong những ngày qua, phía TQ lớn tiếng vu cáo VN chủ động đâm va vào các tàu hộ vệ của TQ, thậm chí nói tàu cá VN bị đâm chìm là do đâm vào tàu TQ.
"Sự thực thế nào, mọi người đã rõ và trong số các nhà báo có mặt tại đây, có rất nhiều người đã tận mắt chứng kiến các hành vi hung hăng của các tàu TQ. Các hành vi đó của TQ không những vi phạm luật pháp quốc tế về việc cấm sử dụng và đe dọa sử dụng vũ lực mà còn là hành vi vô nhân đạo đối với ngư dân VN".
Tư liệu của TQ được diễn giải tùy tiện
Nêu quan điểm của VN về yêu sách của TQ đối với Hoàng Sa, ông Hải cho hay, VN bác bỏ lập luận yêu sách chủ quyền của TQ đối với quần đảo Hoàng Sa, mà TQ gọi là Tây Sa vì các yêu sách của TQ không có cơ sở pháp lý và lịch sử.
Ông Hải khẳng định các tư liệu lịch sử cho thấy TQ không có chủ quyền đối với Hoàng Sa.
TQ đưa ra một số tư liệu lịch sử, nhưng các tư liệu lịch sử của TQ không có nguồn gốc rõ ràng, không chính xác và được diễn giải một cách tùy tiện.
"Các tư liệu này đều là của cá nhân, không phải là tài liệu chính thức của nhà nước phong kiến TQ. Trong các tư liệu đó, quần đảo Hoàng Sa được nêu tên và mô tả một cách thiếu nhất quán. Theo quy định của luật pháp quốc tế về thụ đắc lãnh thổ, một quốc gia chỉ có thể thiết lập chủ quyền thông qua các hành động thực thi chủ quyền mang danh nghĩa nhà nước. Các tài liệu mà TQ đã công khai không chứng tỏ nhà nước phong kiến TQ đã thiết lập chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa khi quần đảo còn là lãnh thổ vô chủ"
Phó Chủ nhiệm UB Biên giới cho hay, năm 1898, sau sự kiện hai tàu Bellona và Huneji Maru bị đâm ở Hoàng Sa và bị ngư dân TQ cướp tài sản, Phó vương Quảng Đông đã lập luận rằng quần đảo Hoàng Sa là đảo bị bỏ rơi, không thuộc về TQ.
Về hành chính, các đảo này không thuộc bất kỳ châu nào của Hải Nam và không có cơ quan nào có trách nhiệm quản lý quần đảo này. Do đó, phía TQ đã tuyên bố không chịu trách nhiệm về vụ ngư dân cướp tài sản.
Trong khi đó, VN đã cung cấp công khai bằng chứng xác thực cho thấy nhà nước phong kiến VN đã thiết lập chủ quyền đối với quần đảo này từ khi quần đảo là lãnh thổ vô chủ. Ít nhất từ thế kỷ 17, các triều đại nhà Nguyễn đã tổ chức các hoạt động khai thác sản vật trên các quần đảo, tổ chức đo đạc hải trình và bảo đảm an toàn cho các tàu thuyền của quốc gia khác qua lại tại khu vực quần đảo Hoàng Sa. Các hoạt động này đều đã được ghi nhận trong các văn bản chính thức do các triều đình phong kiến VN ban hành là các châu bản hiện đang được lưu giữ tại VN.
Sau khi Pháp ký hiệp định bảo hộ năm 1874 và 1884 với triều đình phong kiến VN, Pháp đã thay mặt VN tiếp tục thực thi chủ quyền đối với Hoàng Sa và tuyên bố phản đối các hành động xâm phạm của TQ. Pháp đã tiến hành nhiều hoạt động thực thi chủ quyền đối với Hoàng Sa như xây dựng và vận hành đèn biển, trạm khí tượng, thiết lập đơn vị hành chính và sáp nhập vào Trung kỳ, cấp phép giấy khai sinh cho công dân VN sinh ra tại Hoàng Sa.
Năm 1909, Đô đốc Quảng Đông Lý Chuẩn tiến hành hành động thám hiểm và thăm dò Hoàng Sa là hành động vi phạm chủ quyền của VN đối với Hoàng Sa đã được các triều đình phong kiến VN thiết lập vững chắc và được Pháp thay mặt VN tiếp tục thực thi hữu hiệu. Pháp đã thay mặt VN phản đối các hành động xâm phạm của TQ và nêu rõ chủ quyền của Hoàng Sa đã được nhà nước An Nam xác lập từ năm 1816.
Ông Hải cho hay, chính quyền Tưởng Giới Thạch lợi dụng bối cảnh chiến tranh thế giới thứ II kết thúc đã xâm nhập trái phép đảo Phú Lâm. Năm 1947, Pháp đã ra tuyên bố phản đối sự xâm nhập này, yêu cầu hai bên tiến hành đàm phán và giải quyết tại cơ quan tài phán quốc tế nhưng chính quyền Trung Hoa Dân quốc đã từ chối. Chính quyền Tưởng sau đó đã rút khỏi Phú Lâm.
Về các hội nghị quốc tế không giao Hoàng Sa cho TQ, ông Hải cho hay, sau chiến tranh thế giới thứ hai, Nhật Bản phải từ bỏ tất cả các lãnh thổ đã chiếm đóng bằng vũ lực trong Chiến tranh thế giới thứ hai, trong đó có quần đảo Hoàng Sa. Các Tuyên bố Cairo năm 1943, Postdam năm 1945 và Hiệp định San Francisco năm 1951 đã liệt kê tất cả các vùng lãnh thổ Nhật Bản phải hoàn trả cho TQ nhưng không bao gồm Hoàng Sa và Trường Sa.
Đáng chú ý, chính quyền Tưởng Giới Thạch đã tham gia quá trình thảo luận ra Tuyên bố Cairo và Postdam mà không đề cập đến Hoàng Sa và Trường Sa. Tại Hội nghị San Francisco, đề nghị về việc điều chỉnh dự thảo Hiệp định để ghi nhận quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là của TQ đã bị bác bỏ bởi đa số 46 phiếu chống/51 phiếu. Trong khi đó, phát biểu của ông Trần Văn Hữu, Thủ tướng, Trưởng phái đoàn quốc gia VN tham dự hội nghị, đã tái khẳng định chủ quyền của VN đối với Hoàng Sa và Trường Sa mà không gặp phải bất cứ sự phản đối nào từ hội nghị.
TQ 2 lần xâm chiếm trái phép Hoàng Sa
Ông Trần Duy Hải nhấn mạnh, TQ đã vi phạm nguyên tắc cấm đe dọa và sử dụng vũ lực cho nên không thể thiết lập được chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa.
TQ đã hai lần xâm chiếm trái phép Hoàng Sa. Năm 1956, lợi dụng lúc Pháp rút khỏi Đông Dương, TQ đã xâm chiếm nhóm đảo phía Đông của Hoàng Sa. Đây là lần đầu tiên TQ thực sự chiếm đóng Hoàng Sa. Chính quyền VN Cộng hòa đã phản đối mạnh mẽ sự chiếm đóng này. Năm 1959, âm mưu đổ bộ lên nhóm đảo phía Tây của một nhóm binh lính TQ giả dạng ngư dân đã bị lực lượng của chính quyền VN Cộng hòa đập tan.
82 "ngư dân" TQ đã bị bắt. Cả hai hành động xâm chiếm này diễn ra sau khi VN đã khẳng định chủ quyền đối với Hoàng Sa, Trường Sa tại hội nghị San Francisco năm 1951 mà không gặp phải bất kỳ sự phản đối nào. Năm 1974, lợi dụng tình hình chiến tranh ở VN, TQ đã tấn công và chiếm quyền kiểm soát Hoàng Sa từ chính quyền miền Nam VN. Đây là lần đầu tiên TQ nắm quyền kiểm soát toàn bộ quần đảo Hoàng Sa.
"Hành động sử dụng vũ lực thôn tính lãnh thổ của một quốc gia khác là vi phạm các nguyên tắc cơ bản luật pháp quốc tế, không thể tạo nên chủ quyền cho TQ đối với quần đảo Hoàng Sa.
VN chưa bao giờ công nhận chủ quyền TQ với Hoàng Sa
Ông Trần Duy Hải khẳng định VN chưa bao giờ công nhận chủ quyền của TQ.
TQ đã cố tình xuyên tạc lịch sử và diễn giải sai lịch sử khi viện dẫn Công thư của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng năm 1958 và một số tài liệu, ấn phẩm được xuất bản ở VN trước năm 1975 như là bằng chứng về việc VN công nhận chủ quyền của TQ đối với Hoàng Sa. VN kiên quyết bác bỏ sự xuyên tạc này.
Thứ nhất, Công thư của Thủ tướng Phạm Văn Đồng không hề đề cập đến Hoàng Sa và Trường Sa. Đây là tài liệu thông báo về việc các cơ quan của Chính phủ VN Dân chủ cộng hòa tôn trọng hải phận 12 hải lý của TQ và bức thư không đề cập gì đến vấn đề chủ quyền.
Trong bối cảnh lịch sử năm 1958, hành động của VN Dân chủ cộng hòa chỉ là nhằm ủng hộ việc TQ mở rộng vành đai an ninh trên biển từ 3 đến 12 hải lý. Nhưng đến nay, TQ đã cố tình diễn giải sai ý nghĩa và bối cảnh lịch sử của bức thư để phục vụ cho yêu sách lãnh thổ sai trái của mình.
Thứ hai, là một bên ký kết Hiệp định Geneva 1954, TQ hoàn toàn nhận thức được rằng theo quy định của Hiệp định, Hoàng Sa, Trường Sa nằm ở phía Nam vỹ tuyến 17, thuộc phạm vi quản lý của Việt Nam Cộng hòa, không thuộc phạm vi quản lý thực tế của Chính phủ VN Dân chủ cộng hòa. Nước CHXHCNVN, Nhà nước VN thống nhất từ năm 1976, đã ngay lập tức kế thừa và nhất quán khẳng định chủ quyền đối với Hoàng Sa, Trường Sa do các đại diện khác nhau của VN thiết lập vững chắc trong lịch sử.
Năm 1974, TQ đã sử dụng vũ lực để chiếm đóng toàn bộ quần đảo Hoàng Sa của VN. Chính phủ VN Cộng hòa và Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam VN đều đã có tuyên bố bày tỏ quan điểm và phản đối hành động của TQ. VN Cộng hòa đã yêu cầu HĐBA LHQ họp khẩn cấp về hành vi sử dụng vũ lực của TQ. Theo luật pháp quốc tế về thụ đắc lãnh thổ, việc sử dụng vũ lực chiếm đóng một vùng lãnh thổ không thể tạo ra chủ quyền.
Năm 1958, nhà lãnh đạo TQ Đặng Tiểu Bình lúc đó là Tổng bí thư của ĐCS TQ hiểu rất rõ bối cảnh lịch sử liên quan đến các tài liệu mà TQ đã trích dẫn. Do vậy, đến tháng 9/1975, với cương vị là phó Chủ tịch Đảng, Phó Thủ tướng, trong trao đổi với lãnh đạo VN, Tổng bí thư Lê Duẩn, ông Đặng Tiểu Bình đã thừa nhận giữa hai nước có ý kiến khác nhau về chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, sau này hai nước sẽ bàn bạc giải quyết.
Bị vong lục của Bộ Ngoại giao TQ ngày 12/5/1988 đã ghi nhận rõ ràng nội dung phát biểu này của Đặng Tiểu Bình. VN yêu cầu TQ tôn trọng sự thật lịch sử đó và nghiêm túc đàm phán với VN về vấn đề chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa.
TQ khăng khăng không rút giàn khoan, không đàm phán
Ông Trần Duy Hải nhấn mạnh, VN đã nỗ lực và thiện chí giải quyết tình hình căng thẳng hiện nay trên biển Đông do việc TQ hạ đặt trái phép giàn khoan Hải Dương 981 trong vùng biển VN gây ra thông qua đàm phán và các biện pháp hòa bình nhưng TQ phản ứng thiếu tính xây dựng.
Trong hơn 1 tháng qua, phù hợp với quy định của Hiến chương LHQ, Công ước luật biển của LHQ 1982, Tuyên bố về cách ứng xử của các bên trên biển Đông và các thỏa thuận cấp cao giữa hai nước, VN đã nỗ lực liên lạc và đối thoại với TQ dưới nhiều hình thức và nhiều cấp để yêu cầu TQ chấm dứt các hành vi vi phạm chủ quyền và quyền tài phán của VN, tôn trọng chủ quyền của VN đối với quần đảo Hoàng Sa, tạo điều kiện để hai bên đàm phán tìm biện pháp ổn định tình hình và quản lý các vấn đề trên biển giữa hai nước. VN đã tiến hành hơn 30 lần tiếp xúc với các cơ quan có thẩm quyền của TQ nhưng TQ vẫn từ chối đàm phán thực chất.
"TQ không những không đáp lại thiện chí của VN mà còn đưa ra các lời cáo buộc vô căn cứ, bóp méo sự thật, vu cáo VN đâm các tàu của Chính phủ TQ hơn 1.500 lần. TQ hoàn toàn không đưa ra bằng chứng thực sự nào về các cáo buộc thiếu căn cứ này. Trong khi đó, VN đã công bố nhiều bằng chứng dưới dạng băng hình, hình ảnh về hành động hung hăng và bạo lực của TQ như đâm va, bắn vòi rồng vào các tàu của VN, đâm chìm tàu cá của ngư dân VN và làm hàng chục người VN bị thương. VN đã mời các nhà báo quốc tế ra hiện trường và các nhà báo đã đưa tin khách quan về vụ việc".
Ông Hải khẳng định nguyên nhân trực tiếp của tình hình căng thẳng hiện nay là do TQ đưa giàn khoan trái phép vào vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của VN nhưng TQ lại tuyên bố rằng đó là vùng biển của TQ. VN đã thể hiện tinh thần thiện chí, nhiều lần đề nghị TQ rút giàn khoan để hai bên giải quyết bằng các biện pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế.
Tuy nhiên, TQ vẫn khăng khăng không rút giàn khoan và không đàm phán, như vậy, việc TQ nói là cánh cửa đàm phán vẫn mở rộng là không đúng với thực tế.
"Một lần nữa, VN kiên quyết yêu cầu TQ tôn trọng luật pháp quốc tế, ngay lập tức chấm dứt các hành vi vi phạm quyền chủ quyền và quyền tài phán của VN trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của VN và không tái diễn các hành động động tương tự trong tương lai. VN một lần nữa yêu cầu TQ giải quyết tất cả các tranh chấp, kể cả tranh chấp về chủ quyền lãnh thổ và quyền tài phán trên biển, thông qua các biện pháp hòa bình phù hợp với luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước luật biển của LHQ 1982".
Ông Nguyễn Quốc Thập, Phó Tổng giám đốc Tập đoàn dầu khí quốc gia VN phát biểu:
Về hoạt động thăm dò khai thác dầu khí của VN ở Biển Đông, trong hơn 40 năm qua, Tập đoàn dầu khí quốc gia VN đã triển khai bình thường các hoạt động thăm dò, khai thác dầu khí ở thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của VN, trong đó có khu vực quần đảo Hoàng Sa và các vùng phụ cận khác. Tập đoàn đã và đang hợp tác với nhiều công ty dầu khí quốc tế để thăm dò và khai thác dầu khí trên thềm lục địa của VN.
Tập đoàn đã ký hơn 100 hợp đồng khai thác, trong đó 61 hợp đồng dầu khí hiện vẫn đang có hiệu lực. Khối lượng công tác tìm kiếm khai thác trên vùng biển và thềm lục địa VN đạt trên 500 ngàn cây số tuyến địa chấn 2D, trên 50 ngàn cây số tuyến địa chấn 3D và khoảng 900 giếng khoan các loại. Tất cả các hoạt động nói trên đều nằm trong phạm vi thềm lục địa và đặc quyền kinh tế 200 hải lý của VN.
Cụ thể, giai đoạn trước 1975: Ngay từ những năm 1969-1970: Chính phủ VN Cộng hòa đã khảo sát trên 12 ngàn cây số tuyến địa chấn 2D kết hợp khảo sát từ thềm lục địa ở miền Nam VN do công ty của Mỹ thực hiện.
Trong 2 năm 1973-74: Chính phủ VN Cộng hòa tiếp tục hợp tác với 2 công ty của Mỹ đã tiến hành khảo sát địa chấn 2D. Dự án thứ nhất là gồm quần đảo Hoàng Sa của VN với khối lượng xấp xỉ gần 3.400 cây số tuyến địa chấn 2D và dự án dọc miền Trung với khối lượng xấp xỉ 5.400 cây số tuyến địa chấn 2D.
Giai đoạn 1975-96: Quốc hội VN phê chuẩn VN tham gia Công ước quốc tế về luật biển 1982 (UNCLOS): Tổng công ty dầu khí quốc gia VN (tiền thân của tập đoàn hiện nay) thực hiện khảo sát địa chấn khu vực miền Trung sử dụng tàu của Liên Xô cũ cùng công ty của Na Uy khảo sát từ vĩ tuyến 10 tới vĩ tuyến 15 bao gồm cả khu vực Hoàng Sa và vùng lân cận.
1993: ĐH Tổng hợp Hà Nội và ĐH Paris 6 sử dụng tàu của Pháp để đo trọng lực khảo sát địa chấn kết hợp lấy mẫu tần nông ở khu vực Hoàng Sa, miền Trung và Đông Nam của VN.
Từ năm 1996 nay: Tập đoàn dầu khí quốc gia VN tiếp tục cùng các công ty dầu khí quốc tế hoạt động trong thềm lục địa và vùng 200 hải lý đặc quyền kinh tế của VN và hoàn toàn tuân thủ Công ước quốc tế về luật biển 1982. Liên tục từ 2007 đến nay, tập đoàn triển khai nhiều dự án do công ty của Na Uy và Singapore thực hiện. Các khảo sát năm 2007, 2010, 2012 ở khu vực Hoàng Sa và lân cận, gần nhất năm 2014 tập đoàn cùng công ty của Mỹ đã hoàn thiện toàn bộ khảo sát ở khu vực nam Hoàng Sa.
Song song với công tác khảo sát và thăm dò dầu khí ngoài thực địa, Tập đoàn đã tiến hành nhiều nghiên cứu đánh giá tiềm năng dầu khí toàn thềm và vùng đặc quyền kinh tế VN bao gồm Hoàng Sa, Trường Sa và các vùng lân cận, có nhiều công trình báo cáo về đánh giá cấu trúc địa chất, tiềm năng dầu khí ở Hoàng Sa và khu vực lân cận, các công trình nghiên cứu về dầu khí ở khu vực này được nhiều tác giả VN và nước ngoài trình bày công khai ở các hội thảo quốc tế, được thừa nhận và đánh giá cao.
Tập đoàn đang triển khai bình thường mọi hoạt động trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của VN, trong đó có Hoàng Sa và các vùng lân cận. Thời gian tới, Tập đoàn sẽ cùng các công ty dầu khí quốc tế tiếp tục hoạt động bình thường trong vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý và thềm lục địa của mình như đã từng làm liên tục từ hơn 40 năm trước đến nay.
Tập đoàn dầu khí quốc gia VN phản đối các hoạt động sai trái của TQ về dầu khí
Trước việc ngày 2/5, TQ đưa giàn khoan Hải Dương 981 vào vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của VN và việc TQ cho là 57 lô dầu khí trong vùng biển tranh chấp trong cuộc họp báo quốc tế ngày 16/5 tại Bắc Kinh, Tập đoàn dầu khí quốc gia VN cực lực phản đối tại các cuộc họp báo.
Hôm nay chúng tôi tiếp tục khẳng định TQ đã dựa vào yêu sách đường lưỡi bò phi lý mà cả thế giới không công nhận để nói rằng 57 lô dầu khí của VN nằm trong vùng tranh chấp là hoàn toàn không có giá trị, TQ đang cố tình và có chủ ý biến vùng biển không có tranh chấp thành có tranh chấp với những đòi hỏi phi lý. Thực tế khu vực này nằm hoàn toàn trong vùng đặc quyền kinh tế của VN.
Tàu VN không thể dùng mạn, boong đâm mũi tàu TQ
Ông Ngô Ngọc Thu, Phó Tư lệnh, Tham mưu trưởng Bộ Tư lệnh Cảnh sát biển VN cho biết:
Ngày 13/6, Bộ Ngoại giao TQ đã tổ chức họp báo về giàn khoan Hải Dương 981 trong đó có đưa ra một số thông tin và hình ảnh sai lệch với tình hình thực tế trên hiện trường. Chúng tôi xin được làm rõ trước công luận một số vấn đề sau:
Việc TQ công bố tính đến 12h trưa ngày 13/6 các tàu VN đã tiến hành đâm húc 1.547 lần vào các tàu của TQ và làm cho mũi tàu của TQ hư hỏng, chúng tôi bác bỏ thông tin sai lệch và phi lý trên. Thực tế vừa qua chỉ có các tàu TQ mới chủ động đâm va và phun nước vào các tàu VN làm cho 36 lần/chiếc tàu VN bị hư hỏng. Từ ngày 3/5 đến nay tổng cộng có 15 kiểm ngư viên và 2 ngư dân VN bị thương. Chúng tôi có đầy đủ bằng chứng và hình ảnh về những tàu TQ tiến hành đâm và tàu VN bị đâm. Các tàu VN không thể sử dụng mạn và boong tàu để đâm vào mũi tàu TQ được.
Về việc TQ vu khống VN cử nhiều người nhái, thả nhiều lưới đánh cá và chướng ngại vật tại khu vực hiện trường gây ảnh hưởng tới người và tàu của TQ:
Xin khẳng định cho tới nay VN không hề sử dụng lực lượng người nhái tại khu vực hiện trường. Về một số lưới đánh cá và một số vật trôi nổi TQ vớt được, nguyên nhân đây là vùng đánh cá truyền thống của VN, khi ngư dân VN tiến hành đánh bắt cá thì các tàu của TQ ngăn cản, đâm va và phun nước nên tàu cá VN buộc phải bỏ lưới, cơ động tàu để tránh sự truy cản của tàu TQ; tàu TQ đã thu lưới của ngư dân VN. Những vật trôi nổi trên biển như thùng phi, mảnh gỗ mà TQ vớt được trên biển là do tàu TQ đâm va vài các tàu của VN và sử dụng vòi rồng công suất lớn phun sang các tàu VN làm cho các thùng phi chứa dầu, thùng sơn, các khúc gỗ là dụng cụ huấn luyện để trên mặt boong tàu, các mảnh ván và thiết bị của tàu VN bị đâm vỡ… bị văng xuống biển. Phía TQ vớt lên coi đây là vật chứng là hoàn toàn sai với sự thật.
TQ nói không đưa tàu chiến và máy bay quân sự đến hiện trường, trên thực tế chúng tôi và cả phóng viên các hãng thông tấn báo chí trong và ngoài nước đã ghi lại được đầy đủ các số liệu, số hiệu tàu và máy bay tại thực địa là bằng chứng không thể chối cãi. Trong hơn 40 ngày qua không thể ngày nào cũng có từ 4-6 tàu chiến đi qua khu vực này bình thường như Bộ Ngoại giao TQ tuyên bố.
Mặc dù các tàu bảo vệ TQ vẫn tiếp tục có những hành động ngăn chặn, cản phá quyết liệt, sẵn sàng đâm va, phun nước song lực lượng Cảnh sát biển, Kiểm ngư VN đã kiên quyết, kiên trì, kiềm chế, không mắc mưu khiêu khích, chủ động cơ động, vòng tránh trước hành động khiêu khích đâm va của các tàu của TQ. Các tàu VN không phun nước và đâm vào các tàu bảo vệ, tàu cá của TQ, chỉ phát loa tuyên truyền yêu cầu TQ rút giàn khoan và các tàu bảo vệ ra khỏi vùng biển VN.
Bác bỏ thông tin của Bộ Ngoại giao TQ
Mở đầu cuộc họp báo, ông Lê Hải Bình thông báo những diễn biến tại thực địa cũng như những động thái ngoại giao, tuyên bố sai trái của TQ. Ông Bình cho hay họp báo nhằm cung cấp những thông tin khách quan về tình hình hiện nay.
Tiếp đó, ông Trần Duy Hải trong bài phát biểu cho hay, trong những ngày qua, phía TQ lớn tiếng vu cáo VN chủ động đâm va vào các tàu hộ vệ của TQ, thậm chí nói tàu cá VN bị đâm chìm là do đâm vào tàu TQ.
"Sự thực thế nào, mọi người đã rõ và trong số các nhà báo có mặt tại đây, có rất nhiều người đã tận mắt chứng kiến các hành vi hung hăng của các tàu TQ. Các hành vi đó của TQ không những vi phạm luật pháp quốc tế về việc cấm sử dụng và đe dọa sử dụng vũ lực mà còn là hành vi vô nhân đạo đối với ngư dân VN".
Tư liệu của TQ được diễn giải tùy tiện
Nêu quan điểm của VN về yêu sách của TQ đối với Hoàng Sa, ông Hải cho hay, VN bác bỏ lập luận yêu sách chủ quyền của TQ đối với quần đảo Hoàng Sa, mà TQ gọi là Tây Sa vì các yêu sách của TQ không có cơ sở pháp lý và lịch sử.
Ông Hải khẳng định các tư liệu lịch sử cho thấy TQ không có chủ quyền đối với Hoàng Sa.
Ông Trần Duy Hải
TQ đưa ra một số tư liệu lịch sử, nhưng các tư liệu lịch sử của TQ không có nguồn gốc rõ ràng, không chính xác và được diễn giải một cách tùy tiện.
"Các tư liệu này đều là của cá nhân, không phải là tài liệu chính thức của nhà nước phong kiến TQ. Trong các tư liệu đó, quần đảo Hoàng Sa được nêu tên và mô tả một cách thiếu nhất quán. Theo quy định của luật pháp quốc tế về thụ đắc lãnh thổ, một quốc gia chỉ có thể thiết lập chủ quyền thông qua các hành động thực thi chủ quyền mang danh nghĩa nhà nước. Các tài liệu mà TQ đã công khai không chứng tỏ nhà nước phong kiến TQ đã thiết lập chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa khi quần đảo còn là lãnh thổ vô chủ"
Phó Chủ nhiệm UB Biên giới cho hay, năm 1898, sau sự kiện hai tàu Bellona và Huneji Maru bị đâm ở Hoàng Sa và bị ngư dân TQ cướp tài sản, Phó vương Quảng Đông đã lập luận rằng quần đảo Hoàng Sa là đảo bị bỏ rơi, không thuộc về TQ.
Về hành chính, các đảo này không thuộc bất kỳ châu nào của Hải Nam và không có cơ quan nào có trách nhiệm quản lý quần đảo này. Do đó, phía TQ đã tuyên bố không chịu trách nhiệm về vụ ngư dân cướp tài sản.
Trong khi đó, VN đã cung cấp công khai bằng chứng xác thực cho thấy nhà nước phong kiến VN đã thiết lập chủ quyền đối với quần đảo này từ khi quần đảo là lãnh thổ vô chủ. Ít nhất từ thế kỷ 17, các triều đại nhà Nguyễn đã tổ chức các hoạt động khai thác sản vật trên các quần đảo, tổ chức đo đạc hải trình và bảo đảm an toàn cho các tàu thuyền của quốc gia khác qua lại tại khu vực quần đảo Hoàng Sa. Các hoạt động này đều đã được ghi nhận trong các văn bản chính thức do các triều đình phong kiến VN ban hành là các châu bản hiện đang được lưu giữ tại VN.
Sau khi Pháp ký hiệp định bảo hộ năm 1874 và 1884 với triều đình phong kiến VN, Pháp đã thay mặt VN tiếp tục thực thi chủ quyền đối với Hoàng Sa và tuyên bố phản đối các hành động xâm phạm của TQ. Pháp đã tiến hành nhiều hoạt động thực thi chủ quyền đối với Hoàng Sa như xây dựng và vận hành đèn biển, trạm khí tượng, thiết lập đơn vị hành chính và sáp nhập vào Trung kỳ, cấp phép giấy khai sinh cho công dân VN sinh ra tại Hoàng Sa.
Năm 1909, Đô đốc Quảng Đông Lý Chuẩn tiến hành hành động thám hiểm và thăm dò Hoàng Sa là hành động vi phạm chủ quyền của VN đối với Hoàng Sa đã được các triều đình phong kiến VN thiết lập vững chắc và được Pháp thay mặt VN tiếp tục thực thi hữu hiệu. Pháp đã thay mặt VN phản đối các hành động xâm phạm của TQ và nêu rõ chủ quyền của Hoàng Sa đã được nhà nước An Nam xác lập từ năm 1816.
Ông Hải cho hay, chính quyền Tưởng Giới Thạch lợi dụng bối cảnh chiến tranh thế giới thứ II kết thúc đã xâm nhập trái phép đảo Phú Lâm. Năm 1947, Pháp đã ra tuyên bố phản đối sự xâm nhập này, yêu cầu hai bên tiến hành đàm phán và giải quyết tại cơ quan tài phán quốc tế nhưng chính quyền Trung Hoa Dân quốc đã từ chối. Chính quyền Tưởng sau đó đã rút khỏi Phú Lâm.
Về các hội nghị quốc tế không giao Hoàng Sa cho TQ, ông Hải cho hay, sau chiến tranh thế giới thứ hai, Nhật Bản phải từ bỏ tất cả các lãnh thổ đã chiếm đóng bằng vũ lực trong Chiến tranh thế giới thứ hai, trong đó có quần đảo Hoàng Sa. Các Tuyên bố Cairo năm 1943, Postdam năm 1945 và Hiệp định San Francisco năm 1951 đã liệt kê tất cả các vùng lãnh thổ Nhật Bản phải hoàn trả cho TQ nhưng không bao gồm Hoàng Sa và Trường Sa.
Đáng chú ý, chính quyền Tưởng Giới Thạch đã tham gia quá trình thảo luận ra Tuyên bố Cairo và Postdam mà không đề cập đến Hoàng Sa và Trường Sa. Tại Hội nghị San Francisco, đề nghị về việc điều chỉnh dự thảo Hiệp định để ghi nhận quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là của TQ đã bị bác bỏ bởi đa số 46 phiếu chống/51 phiếu. Trong khi đó, phát biểu của ông Trần Văn Hữu, Thủ tướng, Trưởng phái đoàn quốc gia VN tham dự hội nghị, đã tái khẳng định chủ quyền của VN đối với Hoàng Sa và Trường Sa mà không gặp phải bất cứ sự phản đối nào từ hội nghị.
TQ 2 lần xâm chiếm trái phép Hoàng Sa
Ông Trần Duy Hải nhấn mạnh, TQ đã vi phạm nguyên tắc cấm đe dọa và sử dụng vũ lực cho nên không thể thiết lập được chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa.
TQ đã hai lần xâm chiếm trái phép Hoàng Sa. Năm 1956, lợi dụng lúc Pháp rút khỏi Đông Dương, TQ đã xâm chiếm nhóm đảo phía Đông của Hoàng Sa. Đây là lần đầu tiên TQ thực sự chiếm đóng Hoàng Sa. Chính quyền VN Cộng hòa đã phản đối mạnh mẽ sự chiếm đóng này. Năm 1959, âm mưu đổ bộ lên nhóm đảo phía Tây của một nhóm binh lính TQ giả dạng ngư dân đã bị lực lượng của chính quyền VN Cộng hòa đập tan.
82 "ngư dân" TQ đã bị bắt. Cả hai hành động xâm chiếm này diễn ra sau khi VN đã khẳng định chủ quyền đối với Hoàng Sa, Trường Sa tại hội nghị San Francisco năm 1951 mà không gặp phải bất kỳ sự phản đối nào. Năm 1974, lợi dụng tình hình chiến tranh ở VN, TQ đã tấn công và chiếm quyền kiểm soát Hoàng Sa từ chính quyền miền Nam VN. Đây là lần đầu tiên TQ nắm quyền kiểm soát toàn bộ quần đảo Hoàng Sa.
"Hành động sử dụng vũ lực thôn tính lãnh thổ của một quốc gia khác là vi phạm các nguyên tắc cơ bản luật pháp quốc tế, không thể tạo nên chủ quyền cho TQ đối với quần đảo Hoàng Sa.
VN chưa bao giờ công nhận chủ quyền TQ với Hoàng Sa
Ông Trần Duy Hải khẳng định VN chưa bao giờ công nhận chủ quyền của TQ.
TQ đã cố tình xuyên tạc lịch sử và diễn giải sai lịch sử khi viện dẫn Công thư của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng năm 1958 và một số tài liệu, ấn phẩm được xuất bản ở VN trước năm 1975 như là bằng chứng về việc VN công nhận chủ quyền của TQ đối với Hoàng Sa. VN kiên quyết bác bỏ sự xuyên tạc này.
Thứ nhất, Công thư của Thủ tướng Phạm Văn Đồng không hề đề cập đến Hoàng Sa và Trường Sa. Đây là tài liệu thông báo về việc các cơ quan của Chính phủ VN Dân chủ cộng hòa tôn trọng hải phận 12 hải lý của TQ và bức thư không đề cập gì đến vấn đề chủ quyền.
Trong bối cảnh lịch sử năm 1958, hành động của VN Dân chủ cộng hòa chỉ là nhằm ủng hộ việc TQ mở rộng vành đai an ninh trên biển từ 3 đến 12 hải lý. Nhưng đến nay, TQ đã cố tình diễn giải sai ý nghĩa và bối cảnh lịch sử của bức thư để phục vụ cho yêu sách lãnh thổ sai trái của mình.
Phóng viên trong và ngoài nước dự họp báo
Thứ hai, là một bên ký kết Hiệp định Geneva 1954, TQ hoàn toàn nhận thức được rằng theo quy định của Hiệp định, Hoàng Sa, Trường Sa nằm ở phía Nam vỹ tuyến 17, thuộc phạm vi quản lý của Việt Nam Cộng hòa, không thuộc phạm vi quản lý thực tế của Chính phủ VN Dân chủ cộng hòa. Nước CHXHCNVN, Nhà nước VN thống nhất từ năm 1976, đã ngay lập tức kế thừa và nhất quán khẳng định chủ quyền đối với Hoàng Sa, Trường Sa do các đại diện khác nhau của VN thiết lập vững chắc trong lịch sử.
Năm 1974, TQ đã sử dụng vũ lực để chiếm đóng toàn bộ quần đảo Hoàng Sa của VN. Chính phủ VN Cộng hòa và Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam VN đều đã có tuyên bố bày tỏ quan điểm và phản đối hành động của TQ. VN Cộng hòa đã yêu cầu HĐBA LHQ họp khẩn cấp về hành vi sử dụng vũ lực của TQ. Theo luật pháp quốc tế về thụ đắc lãnh thổ, việc sử dụng vũ lực chiếm đóng một vùng lãnh thổ không thể tạo ra chủ quyền.
Năm 1958, nhà lãnh đạo TQ Đặng Tiểu Bình lúc đó là Tổng bí thư của ĐCS TQ hiểu rất rõ bối cảnh lịch sử liên quan đến các tài liệu mà TQ đã trích dẫn. Do vậy, đến tháng 9/1975, với cương vị là phó Chủ tịch Đảng, Phó Thủ tướng, trong trao đổi với lãnh đạo VN, Tổng bí thư Lê Duẩn, ông Đặng Tiểu Bình đã thừa nhận giữa hai nước có ý kiến khác nhau về chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, sau này hai nước sẽ bàn bạc giải quyết.
Bị vong lục của Bộ Ngoại giao TQ ngày 12/5/1988 đã ghi nhận rõ ràng nội dung phát biểu này của Đặng Tiểu Bình. VN yêu cầu TQ tôn trọng sự thật lịch sử đó và nghiêm túc đàm phán với VN về vấn đề chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa.
TQ khăng khăng không rút giàn khoan, không đàm phán
Ông Trần Duy Hải nhấn mạnh, VN đã nỗ lực và thiện chí giải quyết tình hình căng thẳng hiện nay trên biển Đông do việc TQ hạ đặt trái phép giàn khoan Hải Dương 981 trong vùng biển VN gây ra thông qua đàm phán và các biện pháp hòa bình nhưng TQ phản ứng thiếu tính xây dựng.
Trong hơn 1 tháng qua, phù hợp với quy định của Hiến chương LHQ, Công ước luật biển của LHQ 1982, Tuyên bố về cách ứng xử của các bên trên biển Đông và các thỏa thuận cấp cao giữa hai nước, VN đã nỗ lực liên lạc và đối thoại với TQ dưới nhiều hình thức và nhiều cấp để yêu cầu TQ chấm dứt các hành vi vi phạm chủ quyền và quyền tài phán của VN, tôn trọng chủ quyền của VN đối với quần đảo Hoàng Sa, tạo điều kiện để hai bên đàm phán tìm biện pháp ổn định tình hình và quản lý các vấn đề trên biển giữa hai nước. VN đã tiến hành hơn 30 lần tiếp xúc với các cơ quan có thẩm quyền của TQ nhưng TQ vẫn từ chối đàm phán thực chất.
"TQ không những không đáp lại thiện chí của VN mà còn đưa ra các lời cáo buộc vô căn cứ, bóp méo sự thật, vu cáo VN đâm các tàu của Chính phủ TQ hơn 1.500 lần. TQ hoàn toàn không đưa ra bằng chứng thực sự nào về các cáo buộc thiếu căn cứ này. Trong khi đó, VN đã công bố nhiều bằng chứng dưới dạng băng hình, hình ảnh về hành động hung hăng và bạo lực của TQ như đâm va, bắn vòi rồng vào các tàu của VN, đâm chìm tàu cá của ngư dân VN và làm hàng chục người VN bị thương. VN đã mời các nhà báo quốc tế ra hiện trường và các nhà báo đã đưa tin khách quan về vụ việc".
Ông Hải khẳng định nguyên nhân trực tiếp của tình hình căng thẳng hiện nay là do TQ đưa giàn khoan trái phép vào vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của VN nhưng TQ lại tuyên bố rằng đó là vùng biển của TQ. VN đã thể hiện tinh thần thiện chí, nhiều lần đề nghị TQ rút giàn khoan để hai bên giải quyết bằng các biện pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế.
Tuy nhiên, TQ vẫn khăng khăng không rút giàn khoan và không đàm phán, như vậy, việc TQ nói là cánh cửa đàm phán vẫn mở rộng là không đúng với thực tế.
"Một lần nữa, VN kiên quyết yêu cầu TQ tôn trọng luật pháp quốc tế, ngay lập tức chấm dứt các hành vi vi phạm quyền chủ quyền và quyền tài phán của VN trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của VN và không tái diễn các hành động động tương tự trong tương lai. VN một lần nữa yêu cầu TQ giải quyết tất cả các tranh chấp, kể cả tranh chấp về chủ quyền lãnh thổ và quyền tài phán trên biển, thông qua các biện pháp hòa bình phù hợp với luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước luật biển của LHQ 1982".
Ông Nguyễn Quốc Thập, Phó Tổng giám đốc Tập đoàn dầu khí quốc gia VN phát biểu:
Về hoạt động thăm dò khai thác dầu khí của VN ở Biển Đông, trong hơn 40 năm qua, Tập đoàn dầu khí quốc gia VN đã triển khai bình thường các hoạt động thăm dò, khai thác dầu khí ở thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của VN, trong đó có khu vực quần đảo Hoàng Sa và các vùng phụ cận khác. Tập đoàn đã và đang hợp tác với nhiều công ty dầu khí quốc tế để thăm dò và khai thác dầu khí trên thềm lục địa của VN.
Ông Nguyễn Quốc Thập
Tập đoàn đã ký hơn 100 hợp đồng khai thác, trong đó 61 hợp đồng dầu khí hiện vẫn đang có hiệu lực. Khối lượng công tác tìm kiếm khai thác trên vùng biển và thềm lục địa VN đạt trên 500 ngàn cây số tuyến địa chấn 2D, trên 50 ngàn cây số tuyến địa chấn 3D và khoảng 900 giếng khoan các loại. Tất cả các hoạt động nói trên đều nằm trong phạm vi thềm lục địa và đặc quyền kinh tế 200 hải lý của VN.
Cụ thể, giai đoạn trước 1975: Ngay từ những năm 1969-1970: Chính phủ VN Cộng hòa đã khảo sát trên 12 ngàn cây số tuyến địa chấn 2D kết hợp khảo sát từ thềm lục địa ở miền Nam VN do công ty của Mỹ thực hiện.
Trong 2 năm 1973-74: Chính phủ VN Cộng hòa tiếp tục hợp tác với 2 công ty của Mỹ đã tiến hành khảo sát địa chấn 2D. Dự án thứ nhất là gồm quần đảo Hoàng Sa của VN với khối lượng xấp xỉ gần 3.400 cây số tuyến địa chấn 2D và dự án dọc miền Trung với khối lượng xấp xỉ 5.400 cây số tuyến địa chấn 2D.
Giai đoạn 1975-96: Quốc hội VN phê chuẩn VN tham gia Công ước quốc tế về luật biển 1982 (UNCLOS): Tổng công ty dầu khí quốc gia VN (tiền thân của tập đoàn hiện nay) thực hiện khảo sát địa chấn khu vực miền Trung sử dụng tàu của Liên Xô cũ cùng công ty của Na Uy khảo sát từ vĩ tuyến 10 tới vĩ tuyến 15 bao gồm cả khu vực Hoàng Sa và vùng lân cận.
1993: ĐH Tổng hợp Hà Nội và ĐH Paris 6 sử dụng tàu của Pháp để đo trọng lực khảo sát địa chấn kết hợp lấy mẫu tần nông ở khu vực Hoàng Sa, miền Trung và Đông Nam của VN.
Từ năm 1996 nay: Tập đoàn dầu khí quốc gia VN tiếp tục cùng các công ty dầu khí quốc tế hoạt động trong thềm lục địa và vùng 200 hải lý đặc quyền kinh tế của VN và hoàn toàn tuân thủ Công ước quốc tế về luật biển 1982. Liên tục từ 2007 đến nay, tập đoàn triển khai nhiều dự án do công ty của Na Uy và Singapore thực hiện. Các khảo sát năm 2007, 2010, 2012 ở khu vực Hoàng Sa và lân cận, gần nhất năm 2014 tập đoàn cùng công ty của Mỹ đã hoàn thiện toàn bộ khảo sát ở khu vực nam Hoàng Sa.
Song song với công tác khảo sát và thăm dò dầu khí ngoài thực địa, Tập đoàn đã tiến hành nhiều nghiên cứu đánh giá tiềm năng dầu khí toàn thềm và vùng đặc quyền kinh tế VN bao gồm Hoàng Sa, Trường Sa và các vùng lân cận, có nhiều công trình báo cáo về đánh giá cấu trúc địa chất, tiềm năng dầu khí ở Hoàng Sa và khu vực lân cận, các công trình nghiên cứu về dầu khí ở khu vực này được nhiều tác giả VN và nước ngoài trình bày công khai ở các hội thảo quốc tế, được thừa nhận và đánh giá cao.
Tập đoàn đang triển khai bình thường mọi hoạt động trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của VN, trong đó có Hoàng Sa và các vùng lân cận. Thời gian tới, Tập đoàn sẽ cùng các công ty dầu khí quốc tế tiếp tục hoạt động bình thường trong vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý và thềm lục địa của mình như đã từng làm liên tục từ hơn 40 năm trước đến nay.
Tập đoàn dầu khí quốc gia VN phản đối các hoạt động sai trái của TQ về dầu khí
Trước việc ngày 2/5, TQ đưa giàn khoan Hải Dương 981 vào vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của VN và việc TQ cho là 57 lô dầu khí trong vùng biển tranh chấp trong cuộc họp báo quốc tế ngày 16/5 tại Bắc Kinh, Tập đoàn dầu khí quốc gia VN cực lực phản đối tại các cuộc họp báo.
Hôm nay chúng tôi tiếp tục khẳng định TQ đã dựa vào yêu sách đường lưỡi bò phi lý mà cả thế giới không công nhận để nói rằng 57 lô dầu khí của VN nằm trong vùng tranh chấp là hoàn toàn không có giá trị, TQ đang cố tình và có chủ ý biến vùng biển không có tranh chấp thành có tranh chấp với những đòi hỏi phi lý. Thực tế khu vực này nằm hoàn toàn trong vùng đặc quyền kinh tế của VN.
Tàu VN không thể dùng mạn, boong đâm mũi tàu TQ
Ông Ngô Ngọc Thu, Phó Tư lệnh, Tham mưu trưởng Bộ Tư lệnh Cảnh sát biển VN cho biết:
Ngày 13/6, Bộ Ngoại giao TQ đã tổ chức họp báo về giàn khoan Hải Dương 981 trong đó có đưa ra một số thông tin và hình ảnh sai lệch với tình hình thực tế trên hiện trường. Chúng tôi xin được làm rõ trước công luận một số vấn đề sau:
Ông Ngô Ngọc Thu
Việc TQ công bố tính đến 12h trưa ngày 13/6 các tàu VN đã tiến hành đâm húc 1.547 lần vào các tàu của TQ và làm cho mũi tàu của TQ hư hỏng, chúng tôi bác bỏ thông tin sai lệch và phi lý trên. Thực tế vừa qua chỉ có các tàu TQ mới chủ động đâm va và phun nước vào các tàu VN làm cho 36 lần/chiếc tàu VN bị hư hỏng. Từ ngày 3/5 đến nay tổng cộng có 15 kiểm ngư viên và 2 ngư dân VN bị thương. Chúng tôi có đầy đủ bằng chứng và hình ảnh về những tàu TQ tiến hành đâm và tàu VN bị đâm. Các tàu VN không thể sử dụng mạn và boong tàu để đâm vào mũi tàu TQ được.
Về việc TQ vu khống VN cử nhiều người nhái, thả nhiều lưới đánh cá và chướng ngại vật tại khu vực hiện trường gây ảnh hưởng tới người và tàu của TQ:
Xin khẳng định cho tới nay VN không hề sử dụng lực lượng người nhái tại khu vực hiện trường. Về một số lưới đánh cá và một số vật trôi nổi TQ vớt được, nguyên nhân đây là vùng đánh cá truyền thống của VN, khi ngư dân VN tiến hành đánh bắt cá thì các tàu của TQ ngăn cản, đâm va và phun nước nên tàu cá VN buộc phải bỏ lưới, cơ động tàu để tránh sự truy cản của tàu TQ; tàu TQ đã thu lưới của ngư dân VN. Những vật trôi nổi trên biển như thùng phi, mảnh gỗ mà TQ vớt được trên biển là do tàu TQ đâm va vài các tàu của VN và sử dụng vòi rồng công suất lớn phun sang các tàu VN làm cho các thùng phi chứa dầu, thùng sơn, các khúc gỗ là dụng cụ huấn luyện để trên mặt boong tàu, các mảnh ván và thiết bị của tàu VN bị đâm vỡ… bị văng xuống biển. Phía TQ vớt lên coi đây là vật chứng là hoàn toàn sai với sự thật.
TQ nói không đưa tàu chiến và máy bay quân sự đến hiện trường, trên thực tế chúng tôi và cả phóng viên các hãng thông tấn báo chí trong và ngoài nước đã ghi lại được đầy đủ các số liệu, số hiệu tàu và máy bay tại thực địa là bằng chứng không thể chối cãi. Trong hơn 40 ngày qua không thể ngày nào cũng có từ 4-6 tàu chiến đi qua khu vực này bình thường như Bộ Ngoại giao TQ tuyên bố.
Mặc dù các tàu bảo vệ TQ vẫn tiếp tục có những hành động ngăn chặn, cản phá quyết liệt, sẵn sàng đâm va, phun nước song lực lượng Cảnh sát biển, Kiểm ngư VN đã kiên quyết, kiên trì, kiềm chế, không mắc mưu khiêu khích, chủ động cơ động, vòng tránh trước hành động khiêu khích đâm va của các tàu của TQ. Các tàu VN không phun nước và đâm vào các tàu bảo vệ, tàu cá của TQ, chỉ phát loa tuyên truyền yêu cầu TQ rút giàn khoan và các tàu bảo vệ ra khỏi vùng biển VN.
Bác bỏ thông tin của Bộ Ngoại giao TQ
Ông Hà Lê, Phó Cục trưởng Cục Kiểm ngư cho hay, lực lượng kiểm ngư đã ra ngoài thực địa tuyên truyền TQ rút giàn khoan, thực thi pháp luật trên biển.
Ông Hà Lê
TQ duy trì trung bình 120 tàu/ngày, chủ động tấn công uy hiếp tàu kiểm ngư VN dưới nhiều hình thức đâm va, phun vòi rồng, sử dụng âm thanh, âm tần đèn pha công suất lớn tác động tâm lý lực lượng kiểm ngư VN. Họ sử dụng phương thức tạo cớ như chặn đuôi, vượt tàu VN, các mặt để tàu VN đâm, tạo tư liệu giả vu cáo tàu VN đâm tàu TQ.
Chúng tôi có đầy đủ bằng chứng khẳng định chưa có trường hợp nào tàu VN chủ động đâm va tàu TQ như TQ đưa tin. Có 23 tàu kiểm ngư VN bị đâm va, hư hại, có 15 kiểm ngư viên bị thương.
Tháng 5/2014, TQ đơn phương áp dụng lệnh cấm đánh bắt cá trên Biển Đông trong 2 tháng rưỡi, trong đó có vùng biển Hoàng Sa của VN. Ngày 16/5, TQ huy động 50 tàu vỏ sắt ra Hoàng Sa không vì mục đích thủy hải sản mà tham gia cùng tàu quân sự cản trở uy hiếp, phá hoại tài sản tàu cá VN, phá hỏng ngư cụ, trang thiết bị liên lạc, đối xử thô bạo với ngư dân, đâm chìm tàu cá VN đang hoạt động trên ngư trường truyền thống.
Từ 1/5 đến nay, hàng trăm lần tàu cá VN bị xua đuổi, uy hiếp, 17 tàu bị gây thiệt hại, làm bị thương hàng chục ngư dân, trong đó có 3 ngư dân bị thương nặng.
Bộ Ngoại giao TQ trong cuộc họp báo hôm 13/6 nói chiều 26/5 tàu cá VN đâm nhiều lần, TQ không có cách nào vào cứu, không cứu hộ được. Xin khẳng định khu vực này tàu cá VN liên tục bị truy đuổi, uy hiếp. Trong đó có tàu 11209 của TQ đã bám đuổi, đâm chìm tàu cá ĐNa của VN.
Chúng tôi bác bỏ thông tin của Bộ Ngoại giao TQ ngày 13/6, chúng tôi có đầy đủ bằng chứng chứng minh hoạt động sai trái của TQ.
Trên thực địa, kiểm ngư VN kiên trì hoạt động động thực thi pháp luật, hỗ trợ ngư dân VN khai thác trên biển.
Tiếp đó là phần hỏi đáp. Đọc toàn bộ TẠI ĐÂY.
Không có nhận xét nào: