Lamhong - Bài thuyết trình của ông Tạ Đình Vui tại Khóa học hỏi GHXHCG của giáo tỉnh Hà Nội
Tòa giám mục Thanh Hóa, ngày 13-14/02/2012
GIA ĐÌNH LÀ CHỦ THỀ TÍCH CỰC THAM GIA ĐỜI SỐNG XÃ HỘI
I. XÁC ĐỊNH TRUNG TÂM: GIA ĐÌNH LÀ XÃ HỘI TỰ NHIÊN ĐẦU TIÊN
1.1. Cơ sở của xác định : Kế hoạch của Thiên Chúa (Sáng thế 1-2) (209)
Trong Kế hoạch của Thiên Chúa, Gia đình có tầm quan trọng và vị trí trung tâm đối với con người và xã hội.
• Con người được Thiên Chúa dựng nên để chung sống với nhau: Ađam và Evà trở nên “một xương một thịt”
• Hai người nam nữ hợp tác với Thiên Chúa để đem lại sự sống mới
• Gia đình: mái ấm hiệp thông, chiếc nôi sự sống và trường học làm người
• Hôn nhân và Gia đình trở thành bí tích của Giao ước mới, khi Chúa Giêsu được sinh ra và sống trong một gia đình
Vì thế, Giáo Hội coi gia đình như là xã hội tự nhiên đầu tiên,
và đặt gia đình làm trung tâm đời sống xã hội (211)
1.2. Tầm quan trọng của Gia đình (212)
a. Gia đình quan trọng đối với con người
• Gia đình thật quan trọng và cốt yếu cho con người: Là chiếc nôi của tình yêu và sự sống, nơi con người được sinh ra và lớn lên, được sống hiệp thông với người khác và trao ban bản thân cho người khác
• Trong mối hiệp thông của gia đình, mỗi con người được nhìn nhận và học biết trách nhiệm của mình trong cuộc sống.
b. Gia đình quan trọng đối với xã hội
• Gia đình – đóng góp cho xã hội những con người thành viên của xã hội – chính là điều kiện cho xã hội và quốc gia tồn tại.
• Gia đình – “cộng đồng các ngôi vị” – đóng góp cho lợi ích của xã hội, mà không gì có thể thay thế được. Gia đình là một cộng đồng tự nhiên giúp cho con người nghiệm ra bản tính xã hội của mình, để sống hiệp thông và sống cộng đồng. Trong tư cách là một cộng đồng ngôi vị, gia đình là “xã hội” đầu tiên của con người.
• Một xã hội xây dựng trên gia đình là bảo đảm tốt nhất cho xã hội khỏi bị cuốn hút theo chủ nghĩa cá nhân hay chủ nghĩa tập thể, vì chỉ trong gia đình, con người mới luôn luôn là trung tâm của mọi quan tâm, con người được coi như mục tiêu chứ không bao giờ bị coi như một phương tiện.
Gia đình phải được đặt trên xã hội và quốc gia, vì gia đình không hiện hữu cho xã hội hay quốc gia, nhưng xã hội hay quốc gia hiện hữu cho gia đình.
Gia đình có những quyền lợi bất khả xâm phạm, và những quyền lợi ấy được coi là chính đáng, do bản tính con người, chứ không do Nhà Nước nhìn nhận. (214).
II. CƠ SỞ CỦA “GIA ĐÌNH LÀ TẾ BÀO ĐEM SỰ SỐNG CHO XÃ HỘI”
1. HÔN NHÂN NỀN TẢNG CỦA GIA ĐÌNH
1.1. Giá trị của Hôn Nhân (215-218)
a. Nền tảng của gia đình
Gia đình đặt nền tảng trên sự lựa chọn tự do (nghĩa là trên sự đồng thuận công khai và không rút lại) của hai vợ chồng kết hợp với nhau trong hôn nhân và trên bản tính của tình yêu vợ chồng, là một định chế không tùy thuộc con người, song tùy thuộc chính Thiên Chúa.
b. Không quyền lực nào có thể xóa bỏ quyền tự nhiên được kết hôn và thay đổi các đặc tính cũng như mục tiêu của hôn nhân. Xã hội không thể tự do áp đặt luật lệ liên quan đến dây ràng buộc hôn nhân, qua đó hai vợ chồng đã hứa hẹn với nhau sẽ trung tín, giúp đỡ nhau và đón nhận con cái, nhưng xã hội có quyền điều chỉnh các hệ quả dân sự của các dây ràng buộc hôn nhân đó.
c. Bốn nét đặc thù của hôn nhân là:
• toàn vẹn, vợ chồng trọn vẹn trao thân cho nhau, về thể lý cũng như về tinh thần
• hợp nhất, nên một, cả hai trở nên “một xương một thịt”
• bất khả phân ly và trung tín, như việc dứt khoát trao thân cho nhau đòi hỏi
• sinh con cái, như một điều mà chính hôn nhân tự nhiên hướng tới.
d. Hôn nhân được định hướng tới việc sinh con, nhưng hôn nhân không được lập ra chỉ vì lý do sinh sản.
Sự kết hợp vợ chồng trong hôn nhân đem lại cho việc tự hiến một sức sống viên mãn, và hoa trái là đứa con; đến lượt mình, con cái trở thành quà tặng cho cha mẹ, cho cả gia đình và xã hội.
1.2. Bí tích Hôn Nhân (219-220)
a. Do sự thiết định của Đức Kitô, người được thánh tẩy sống thực tại nhân loại (nghĩa là cách tự nhiên, chung cho mọi con người) của hôn nhân theo một hình thức siêu nhiên, nghĩa là như một bí tích, tức là một dấu chỉ chuyển ban ân sủng.
• Trong suốt dòng lịch sử cứu độ, giao ước hôn nhân được dùng để diễn tả hết sức ý nghĩa sự hiệp thông trong tình yêu giữa Thiên Chúa và loài người.
• Đức Giêsu Kitô, Đấng hoàn thành Kế hoạch Yêu thương của Thiên Chúa đối với nhân loại, kết hợp với nhân loại thành một Thân Mình. Ngài là “vị Hôn phu yêu thương và tự hiến mình làm Đấng cứu chuộc loài người” .
• Bí tích Hôn nhân ẳm nhận trọn vẹn tình yêu hôn nhân đem lại cho đôi vợ chồng và cha mẹ Kitô hữu khả năng và cam kết sống trọn ơn gọi giáo dân của mình, và từ đó tìm kiếm Nước Thiên Chúa bằng cách tham gia vào các công việc trần thế, sắp xếp chúng theo đúng Kế hoạch của Thiên Chúa.
• Vợ chồng Kitô hữu, kết hợp mật thiết với Giáo Hội nhờ Bí tích Hôn Nhân, là “giáo hội tại gia” hay “giáo hội nhỏ”, giúp nhau nên thánh và trở thành dấu hiệu thể hiện tình yêu của Đức Kitô trong thế giới. Họ cũng được mời gọi công bố và làm chứng ý nghĩa tôn giáo của hôn nhân.
2. GIA ĐÌNH MỘT CHỦ THỂ MANG TÍNH XÃ HỘI
là nơi sinh ra và đào tạo cho xã hội những con người biết sống hiệp thông với nhau bằng tình yêu.
2.1. Tình yêu và việc đào tạo một cộng đồng các ngôi vị
a. Gia đình là nơi khai sinh sự hiệp thông – sự hiệp thông này rất cần thiết đối với một xã hội ngày càng theo chủ nghĩa cá nhân như xã hội hôm nay (221).
• Gia đình giúp cộng đồng các ngôi vị đích thực được phát triển và lớn lên, nhờ tính năng động không ngừng của tình yêu. “Tình yêu làm cho con người có được sự sung mãn nhờ biết chân thành trao ban chính mình. Yêu có nghĩa là cho và nhận một điều gì mình không thể mua cũng không thể bán, mà chỉ có thể trao cho nhau một cách tự nguyện.”491.
• Chính nhờ tình yêu – vốn là thực tại căn bản để định nghĩa hôn nhân và gia đình – mà mỗi người, nam hay nữ, được nhìn nhận, được chấp nhận và được tôn trọng theo đúng phẩm giá của mình. Vị trí của người cao tuổi trong gia đình (222).
b. Chính bản chất của tình yêu vợ chồng đòi hỏi quan hệ hôn nhân phải bền vững và bất khả phân ly (225).
* Trách nhiệm bảo vệ và phát huy gia đình thành một định chế căn bản tự nhiên, nhất là khi nhìn tới những khía cạnh quan trọng và căn bản của gia đình, phải là trách nhiệm của toàn thể xã hội.
* Nhu cầu cần phải đem đến cho hôn nhân tính cơ chế, dựa trên một hành vi công khai được xã hội và luật pháp nhìn nhận, là nhu cầu xuất phát từ những đòi hỏi căn bản của bản tính xã hội nơi con người.
c. Một số hoàn cảnh đặc thù.
• Những người ly dị (225-226)
• Trường hợp “kết hợp đã rồi” (227)
• Những người đồng tính luyến ái. (228).
d. Sự bền vững của hạt nhân gia đình chính là nguồn mang tính quyết định làm cho cuộc sống trong xã hội có chất lượng (229 )
Nhiệm vụ của cộng đồng Kitô giáo và tất cả những ai tha thiết với ích lợi của xã hội là phải tái khẳng định rằng
“Gia đình không chỉ là một đơn vị pháp lý, xã hội và kinh tế, mà còn là một cộng đồng yêu thương và liên đới, là môi trường duy nhất thích hợp để dạy dỗ và truyền đạt những giá trị văn hoá, đạo đức, xã hội, tâm linh và tôn giáo, một việc rất cần để phát triển và xây dựng hạnh phúc cho các thành viên trong gia đình và cho xã hội.
2.2. Gia đình là thánh điện của sự sống (230)
a. Tình yêu vợ chồng tự bản chất luôn mở ra để đón nhận sự sống.
b. Sinh sản biểu lộ chủ thể tính xã hội của gia đình và khởi động một sức mạnh của tình yêu và liên đới giữa các thế hệ, mà trên đó xã hội được thành lập.
c. Gia đình xây dựng trên hôn nhân đúng là thánh điện của sự sống, “trong đó sự sống – một quà tặng của Thiên Chúa – có thể được tiếp đón và bảo vệ thích đáng khỏi rất nhiều sự tấn công mà sự sống có nguy cơ gặp phải, cũng như có thể được phát triển phù hợp với những gì làm nên sự tăng trưởng nhân bản đích thực” (231).
d. Dựa vào bí tích đã lãnh nhận, các gia đình Kitô giáo có một sứ mạng đặc biệt là làm chứng nhân và làm người loan báo Tin Mừng sự sống. Chính vì lý do đó, “phục vụ Tin Mừng sự sống… có nghĩa là các gia đình, thông qua việc tham gia vào các hiệp hội gia đình, ra sức làm việc thế nào để bảo đảm cho luật lệ và định chế của quốc gia chẳng những không xâm phạm quyền sống, từ khi thụ thai cho tới khi chết cách tự nhiên, mà còn bảo vệ và phát triển quyền sống đó”.
e. Gia đình đóng góp vào ích lợi xã hội một cách hết sức đặc biệt qua việc làm cha làm mẹ, như một cách cho phép hai vợ chồng tham gia đặc biệt vào công việc sáng tạo của Thiên Chúa. (232)
g. Lưu ý về một số vấn đề liên quan đến sinh sản.
• Đối với các “phương pháp” giúp thực hành việc sinh sản có trách nhiệm, phương pháp đầu tiên cần phải loại bỏ vì bất hợp pháp về luân lý là triệt sản và phá thai. Đặc biệt, phá thai là một tội ác đáng ghê tởm và là một sự phá hoại trật tự luân lý một cách đặc biệt nghiêm trọng.(233).
• Cũng cần loại bỏ những phương pháp ngừa thai không hợp tự nhiên.
• Quyết định về thời gian cách quãng giữa các lần sinh con và về số con muốn có là quyền riêng của hai vợ chồng (234)
• Ước muốn làm cha làm mẹ không có nghĩa là được “quyền có con” bằng bất cứ cách nào, vì con cái chưa sinh ra cũng có quyền của mình (235).
• Cần nhắc lại rằng đạo đức học không thể chấp nhận mọi kỹ thuật sinh sản.
• Một vấn đề có tầm quan trọng đặc biệt về xã hội và văn hoá hiện nay, vì kéo theo nhiều hệ luỵ luân lý nghiêm trọng, chính là nhân bản vô tính (236).
h. Các cha mẹ, trong tư cách là những thừa tác viên của sự sống, không bao giờ được quên rằng cần phải chú ý tới chiều hướng thiêng liêng của việc sinh sản hơn bất cứ chiều hướng nào khác : “Vai trò làm cha làm mẹ là một trách nhiệm, về bản chất, nó không đơn thuần là trách nhiệm thể lý mà là trách nhiệm thiêng liêng. (237)
2.3. Nhiệm vụ giáo dục
a. Trong việc giáo dục, gia đình đào tạo con người đạt tới phẩm giá viên mãn, theo tất cả mọi chiều hướng, kể cả chiều hướng xã hội. (238)
• Thật vậy, gia đình chính là “cộng đồng yêu thương và liên đới, nơi duy nhất thích hợp để dạy dỗ và truyền đạt các giá trị văn hoá, đạo đức, xã hội, tâm linh và tôn giáo, rất cần cho các thành viên của gia đình và xã hội được phát triển và hạnh phúc” 539.
• Khi thi hành sứ mạng giáo dục, gia đình đã đóng góp vào công ích và trở thành ngôi trường đầu tiên dạy các đức tính xã hội, là điều mà xã hội nào cũng cần 540. Trong gia đình, mọi người đều được giúp đỡ để lớn lên trong tự do và trách nhiệm, là những đòi hỏi cần thiết cho bất cứ vai trò nào trong xã hội. Nhờ việc giáo dục, một số giá trị căn bản đã được truyền đạt và tiếp thu 541.
b. Gia đình đóng một vai trò hoàn toàn độc đáo và không thể thay thế được trong việc dạy dỗ con cái. (239) Tình yêu của cha mẹ – dành để phục vụ con cái bằng cách làm phát sinh ra từ chúng (e-ducere) những điều tốt đẹp nhất – sẽ được biểu lộ trọn vẹn nhất trong việc giáo dục”.
c. Quyền lợi và nghĩa vụ của cha mẹ trong việc giáo dục con cái là quyền lợi và nghĩa vụ “thiết yếu, vì nó liên kết với việc lưu truyền sự sống. Đó cũng là quyền lợi và nghĩa vụ nguyên thuỷ và ưu tiên so với vai trò giáo dục của những người khác, vì giữa cha mẹ v con ci cĩ một quan hệ yêu thương độc đáo; đó cũng là quyền hạn và nghĩa vụ không thể thay thế và không thể chuyển nhượng, do đó, không thể uỷ thác hoàn toàn cho người khác hay không thể bị người khác chiếm đoạt”
d. Cha mẹ là những nhà giáo dục đầu tiên, nhưng không phải là nhà giáo dục duy nhất, đối với con cái (240). Bởi đó, cha mẹ có bổn phận thi hành việc giáo dục một cách có trách nhiệm bằng cách cộng tác chặt chẽ và sáng suốt với các cơ quan dân sự và Giáo Hội.
e. Cha mẹ có quyền thành lập và hỗ trợ các cơ sở giáo dục (241).
g. Gia đình có trách nhiệm cung cấp một sự giáo dục toàn diện (242). Thật vậy, mọi nền giáo dục chân chính “đều nhằm đào tạo con người trong cái nhìn hướng tới mục tiêu cuối cùng của con người và ích lợi của xã hội mà con người thuộc về, cũng như trong các nghĩa vụ mà con người sẽ phải tham gia gánh vác khi trưởng thành”.
h. Trong việc giáo dục con cái, vai trò của người cha và của người mẹ đều cần thiết như nhau. Bởi đó, cha mẹ phải làm việc chung với nhau. Họ phải thi hành quyền bính với lòng tôn trọng và sự dịu dàng, nhưng nếu cần thì cũng phải kiên quyết và cứng rắn: phải thi hành quyền bính một cách đáng tin cậy, ổn định và khôn ngoan; phải luôn thi hành quyền bính trong sự lưu tâm đến ích lợi toàn diện của con cái.
i. Cha mẹ cũng có trách nhiệm đặc biệt trong việc giáo dục giới tính (243). Một điều quan trọng mang tính nền tảng đối với sự trưởng thành quân bình của con cái là chúng được dạy dỗ một cách trật tự và tuần tự về ý nghĩa của tính dục, cũng như được học để biết quý trọng những giá trị luân lý và nhân bản đi đôi với tính dục.
2.4. Phẩm giá và quyền lợi của con cái
a. Giáo huấn xã hội của Giáo Hội không ngừng cho thấy cần phải tôn trọng phẩm giá của con cái (244). “Trong gia đình, là một cộng đồng các ngôi vị, người ta cần phải quan tâm đặc biệt tới con cái bằng cách phát triển lòng quý mến sâu xa phẩm giá riêng của chúng, tôn trọng và quảng đại lưu tâm đến các quyền lợi của chúng. Đây là điều phải làm đối với mọi đứa con, nhưng nó trở nên cấp bách hơn khi đứa trẻ còn nhỏ và càng cần mọi sự hơn khi chúng đau ốm, buồn khổ hay tật nguyền”
b. Quyền lợi của con cái phải được luật pháp bảo vệ trong hệ thống luật pháp. Trước hết, giá trị xã hội của con cái cần phải được công khai nhìn nhận trong hết mọi quốc gia: Quyền đầu tiên của con cái là quyền “được sinh ra trong một gia đình thực sự”556, một quyền không phải luôn luôn được tôn trọng và hiện nay đang bị xâm phạm bằng nhiều cách do đã có sự phát triển trong công nghệ di truyền.
Tình hình của đông đảo trẻ em trên thế giới hiện nay, thật không thoả đáng chút nào, do thiếu những điều kiện thuận lợi để chúng được phát triển toàn diện, dù đã có một công cụ tư pháp quốc tế đặc biệt bảo vệ quyền của các trẻ em557, một công cụ ràng buộc hầu hết mọi thành viên trong cộng đồng quốc tế (245).
III. QUAN HỆ HỔ TƯƠNG GIỮA GIA ĐÌNH VÀ XÃ HỘI
1. GIA ĐÌNH PHỤC VỤ XÃ HỘI: TÍCH CỰC THAM GIA VÀO ĐỜI SỐNG XÃ HỘI (246-251)
a. Sự Liên đới trong gia đình
• Đặc tính xã hội của Gia đình, xét như một đơn vị riêng hay liên kết với nhau, được biểu lộ không chỉ qua những biểu lộ tình liên đới hoặc những hình thức chia sẻ cho nhau mà còn qua những dạng thức tham gia khác nhau vào đời sống xã hội và chính trị. Điều này xảy ra khi gia đình đặt nền móng trên tình yêu : khi được sinh ra và lớn lên trong tình yêu, thì tình liên đới thuộc về gia đình như một nhân tố căn bản và cấu tạo nên gia đình.
• Nhờ đó, gia đình sẽ không còn là đối tượng thụ động, nhưng có thể và cần trở thành những chủ thể tích cực, dấn thân vào các bình diện kinh tế, xã hội, pháp luật và văn hóa, ý thức trách nhiệm xây dựng xã hội của mình.
b. Gia đình, Đời sống kinh tế và lao động
• Mối quan hệ giữa gia đình và đời sống kinh tế có một ý nghĩa đặc biệt, và gia đình cần phải được nhìn nhận là tác nhân chính của đời sống kinh tế: kinh tế được sinh ra từ những việc làm trong gia đình, và đời sống kinh tế phát triển do sáng kiến con người và thực hiện theo những vòng tròn đồng tâm, là các mạng lưới sản xuất, trao đổi và dịch vụ, lôi kéo các gia đình tham gia ngày càng rộng.
• Mối quan hệ giữa gia đình và lao động cũng hết sức đặc biệt: Gia đình là một trong những điểm qui chiếu quan trọng nhất làm nên trật tự xã hội và đạo đức cho lao động con người’. Lao động cần thiết để xây dựng, rồi nuôi sống một gia đình. Cần phải bảo đảm cho tiền lương đủ nuôi sống gia đình và cho phép gia đình sống xứng đáng.
2. XÃ HỘI PHỤC VỤ GIA ĐÌNH (252-254)
2.1 Muốn có mối tương quan đúng đắn và mang tính xây dựng giữa gia đình và xã hội, cần phải bắt đầu từ việc nhìn nhận chủ thể tính và thế ưu tiên của gia đình trong xã hội
• Mối thân tình ấy đòi “xã hội luôn luôn tôn trọng và hỗ trợ các gia đình”.
• Xã hội, nhất là các tổ chức quốc gia, cần phải bảo đảm và phát huy bản sắc đích thực của đời sống gia đình, đồng thời phải tránh và chống lại tất cả những gì có thể làm biến chất hay phương hại tới gia đình.
• Muốn thế, cần có những hoạt động chính trị và pháp luật để bảo vệ các giá trị gia đình, từ việc cổ vũ sự thân mật và hài hòa trong chính gia đình cho đến việc tôn trọng các thai nhi, cũng như quyền tự do lựa chọn cách giáo dục con cái.
• Xã hội lẫn Nhà Nước đều phải tôn trọng, nhìn nhận và phát huy chiều hướng xã hội của gia đình theo đúng nguyên tắc bổ trợ.
2.2. Xã hội phục vụ gia đình khi nhìn nhận, tôn trọng và phát huy các quyền lợi của gia đình, bằng cách:
• đưa ra các chính sách gia đình vừa hữu hiệu vừa chân chính, với những sự can thiệp khả dĩ đáp ứng các nhu cầu nảy sinh từ quyền lợi của gia đình.
• công nhận – kèm theo đó là bảo vệ, trân trọng và phát huy – bản sắc của gia đình là xã hội tự nhiên được xây dựng trên hôn nhân.
• Việc xã hội dân sự và Nhà Nước nhìn nhận vị thế ưu tiên của gia đình so với mọi cộng đồng khác, kể cả thực tại quốc gia, là một cách vượt qua những quan niệm cá nhân chủ nghĩa thuần tuý và chấp nhận chiều hướng gia đình như là viễn tượng văn hoá và chính trị cần thiết trong việc quan tâm đến các ngôi vị.
Không có nhận xét nào: